Hà Nội, Ngày 09/05/2024

Bộ Nội vụ trong những năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc (từ cuối năm 1946 đến Thu - Đông năm 1950)

Ngày đăng: 12/08/2020   15:15
Mặc định Cỡ chữ
Thời kỳ từ đầu năm 1947 đến giữa năm 1950 là giai đoạn cách mạng Việt Nam trải qua nhiều thử thách cam go khốc liệt nhất. Trong thời gian từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đến ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ, quân và dân ta đã tích cực tranh thủ khoảng thời gian hoà hoãn tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng quý báu đó để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ và ngành công tác tổ chức, xây dựng và điều hành bộ máy chính quyền, bảo vệ an ninh chính trị là rất quan trọng nhưng cũng rất nặng nề, đòi hỏi lãnh đạo và cán bộ, viên chức của Bộ cần có nỗ lực vượt bậc để hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào công cuộc kháng chiến kiến quốc của toàn dân tộc.

I- BỘ NỘI VỤ VỚI VIỆC TỔ CHỨC CUỘC TẢN CƯ, DI CHUYỂN CHIẾN LƯỢC

1. Tổ chức tiêu thổ kháng chiến

Phán đoán trước âm mưu phá hoại Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946), phát động chiến tranh xâm lược toàn diện của thực dân Pháp, ngay trong đầu mùa Đông 1946 Trung ương Đảng và Chính phủ đã bắt đầu chỉ đạo cho quân và dân ta thực hiện công tác phá hoại, lập chiến luỹ, ngăn ngừa đòn tấn công của địch. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, công tác phá hoại trở thành một giải pháp chiến lược để kìm chân địch, đẩy địch vào thế bị động, tạo điều kiện để ta tổ chức cuộc tản cư, di chuyển đại quy mô lên các vùng căn cứ, chuẩn bị kháng chiến trường kỳ. Tuy nhiên, không phải công tác này không gặp khó khăn, phức tạp. Do kế hoạch phá hoại nhằm kìm chân địch không được chuẩn bị chu đáo, chủ trương lại không cụ thể, rõ ràng, cho nên đã dẫn tới tình trạng phá hoại tràn lan ở một số nơi, xâm hại đến tài sản của nhân dân. Do vậy, không ít nơi nhân dân đã tỏ thái độ bất bình trước tình hình này. Một báo cáo của Bộ Nội vụ cho biết: "Lúc đầu, dân chúng tuy không dám phản kháng, nhưng phần đông đều ngấm ngầm oán trách Chính phủ. Sau một thời gian quân địch đánh lan rộng ra các nơi, đốt nhà, cướp của, hiếp người thì ai nấy đều tỉnh ngộ ra, trở lại oán ghét quân địch, nhận kế hoạch tiêu thổ kháng chiến của Chính phủ là đúng và một lòng tin tưởng ở Chính phủ kháng chiến".

2. Di chuyển an toàn các cơ quan Trung ương

Với tầm nhìn xa, trông rộng, thấy trước nguy cơ một cuộc chiến khốc liệt khó tránh khỏi sau khi giành được chính quyền, ngay trong những ngày Cách mạng Tháng Tám vô cùng khẩn trương, trước khi rời Tân Trào về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Lê Giản ở lại tiếp tục củng cố khu căn cứ trở thành chỗ đứng chân lâu dài của cách mạng. Trong thời gian hoà hoãn, Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục vừa chăm lo củng cố chính quyền cách mạng, vừa tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến. Các cơ quan Chính phủ và đoàn thể đều chuyển sang nếp sinh hoạt và công tác theo lối quân sự hoá. Đầu tháng 12-1946, phương án và kế hoạch di chuyển các cơ quan Trung ương của Đảng, Chính phủ và Quốc hội đã được vạch ra. Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ chuẩn bị toàn bộ lộ trình di chuyển, bao gồm lên kế hoạch, chuẩn bị cơ sở sơ tán theo các chặng, tổ chức di chuyển và chỉ đạo việc ổn định cơ quan làm việc ở những nơi sơ tán. Theo kế hoạch này thì khi kháng chiến bùng nổ, Chính phủ và các cơ quan Trung ương sẽ rút vào Hà Đông - Sơn Tây, di chuyển về phía Tây Nam rồi mới hướng lên Việt Bắc. Triển khai kế hoạch đó, ngay trước khi phát lệnh Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ đã rút về Vạn Phúc, rồi di chuyển về Quốc Oai, Thạch Thất tỉnh Hà Đông. Địa bàn 5 xã vùng chiêm trũng giáp giới hai huyện này với tên gọi nổi danh "Khu Cháy", là chặng đường dừng chân đầu tiên của các cơ quan của Chính phủ, trong đó có Bộ Nội vụ. Đầu tháng 3-1947, Bộ Nội vụ và các cơ quan khác của Chính phủ đã di chuyển an toàn tới Việt Bắc, trở về "thủ đô cách mạng" Tân Trào. Phần lớn các cơ quan của Chính phủ, bao gồm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các Bộ, trong đó có Bộ Nội vụ, đều đóng rải rác ở một số xã thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, gọi chung là ATK (An toàn khu). Đến đây, có thể nói Bộ Nội vụ đã hoàn thành xuất sắc một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến, kiến quốc, là tổ chức bảo vệ an toàn Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn bộ cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng, Chính phủ và Quốc hội di chuyển tới vùng ATK, góp phần đập tan âm mưu thâm độc của thực dân Pháp hòng bao vây, chặn bắt bộ tham mưu tối cao của ta, buộc ta đầu hàng và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

3. Tổ chức cuộc tản cư, di chuyển chiến lược

Bên cạnh nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là di chuyển an toàn các cơ quan Trung ương, Bộ Nội vụ còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ giao nhiệm vụ làm đầu mối tổ chức toàn bộ cuộc tản cư của các cơ quan chính quyền, đoàn thể và nhân dân. Đây là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề, phức tạp, nhất là trong khi Bộ Nội vụ chỉ có một số lượng cán bộ, nhân viên hạn chế, quân địch lại ráo riết bao vây, đánh phá ác liệt, hòng ngăn chặn cuộc tản cư chiến lược của ta. Riêng đối với Uỷ ban tản cư, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: "Kỳ, tỉnh, huyện, làng đều phải có một Uỷ ban tản cư. Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 31-12-1946, Bộ Nội vụ đã chuẩn bị để Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 5/SL thành lập Uỷ ban tản cư, di cư Trung ương. Uỷ ban này có nhiệm vụ đề nghị lên Bộ Nội vụ kế hoạch tản cư, di cư, phối hợp với các cấp chính quyền và các Uỷ ban tản cư, di cư ở địa phương để thực hiện kế hoạch đó, nhằm bảo vệ và gìn giữ tiềm lực cho cuộc kháng chiến, kiến quốc trường kỳ.

Về phương diện chính quyền, Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về công tác tản cư, di chuyển, do vậy Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam là người được Chính phủ giao phụ trách việc tổ chức cuộc tản cư, di cư này.

Có thể nói, trong điều kiện vô cùng khẩn trương, ác liệt, việc tổ chức thành công cuộc di cư, tản cư chiến lược đó thực sự là một thành tích lớn, trong đó có phần đóng góp quan trọng của Bộ Nội vụ. Tuy vậy, do tình hình phức tạp, cán bộ vừa thiếu, vừa chưa có nhiều kinh nghiệm, nên công tác tổ chức, chỉ đạo di cư, tản cư cũng còn nhiều lúng túng, bất cập. Ngày 10-3- 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Bộ Nội vụ. Người chỉ rõ những thiếu sót của các cấp chính quyền trong công tác này. Do đó, Người chỉ thị cho Bộ Nội vụ: "Bộ Nội vụ cần phải củng cố ngay các Uỷ ban hành chính lại. Phải có chỉ thị rõ ràng, những nơi địch đang chiếm đóng, những nơi địch đi qua, và những nơi địch có thể đến, thì các Uỷ ban hành chính phải làm thế nào. Vô luận thế nào, các Uỷ ban hành chính không được bỏ dân bơ vơ. Bộ Nội vụ cần phái người đến những vùng địch đang chiếm, một là để giữ vững tinh thần của dân, làm cho dân biết Chính phủ không quên họ. Hai là giải thích nhiệm vụ và kế hoạch cho các Uỷ ban hành chính, và điều tra những người bất lực, thì phải cất chức đi, tìm người khá hơn thay vào. Bộ Nội vụ cần phải cùng đặc phái viên tản cư thảo luận để định các hạng, như hạng A phải tản cư lâu dài, B tản cư tạm thời, C phải chuẩn bị tản cư. Bày kế hoạch, định phương hướng, và tìm cách giúp đỡ cho mỗi một hạng. Việc này cần làm ngay”.

Chỉ thị nghiêm khắc và tỉ mỉ trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Bộ Nội vụ nghiêm túc tiếp thu và khẩn trương thi hành. Nhờ vậy mà công tác tản cư được tổ chức tốt hơn, những lúng túng, sai phạm bớt dần. Song, tình hình chiến sự ngày càng trở nên ác liệt, công tác tản cư buộc phải giảm dần, và do đó, chỉ giành được thắng lợi trên căn bản.

II- BỘ NỘI VỤ GÓP PHẦN VÀO SỰ NGHIỆP  KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC  (Từ cuối năm 1946 đến Thu -  đông năm 1950)

1. Cơ quan Bộ Nội vụ ở chiến khu Việt Bắc

Lúc mới tới Tuyên Quang, cơ quan Bộ Nội vụ có tên bí mật là "Tiểu đội 1", tạm ở và làm việc tại nhà dân thuộc xóm Cầu, xã Minh Khai (nay là xã Minh Thanh), huyện Sơn Dương. Tới đầu năm 1948, cơ quan Bộ Nội vụ chuyển đến đóng tại thôn Yên Thượng, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lúc đó, toàn bộ cơ quan Bộ chỉ có khoảng trên 20 cán bộ. Khu sườn đồi cạnh bờ sông Phó Đáy ở thôn Yên Thượng, xã Trung Yên là nơi cơ quan Bộ đóng lâu nhất, từ đầu năm 1948 đến cuối năm 1950. Nếp sinh hoạt và làm việc của cán bộ cơ quan Bộ vừa giản dị, nghiêm túc, khẩn trương, vừa thật đầm ấm, lạc quan. Cán bộ và nhân viên cùng làm việc và ăn, ở theo lối tập thể. Tuy trong điều kiện sơ tán, nhưng lãnh đạo và cán bộ cơ quan Bộ Nội vụ luôn luôn chú trọng nền nếp công tác và sinh hoạt nghiêm túc, kỷ luật, nhưng đầm ấm và giản dị. Các buổi sinh hoạt, kiểm điểm công tác đều được duy trì đều đặn. Cán bộ, từ lãnh đạo tới nhân viên đều thực hiện quy tắc "đi báo cáo, về báo công", gương mẫu trong tự phê bình và phê bình, chấp hành kỷ luật. Cơ quan Bộ Nội vụ còn giao kết thi đua với cán bộ cơ quan Văn phòng Chính phủ về nền nếp và ý thức sẵn sàng chiến đấu, thậm chí tổ chức kiểm tra đột xuất lẫn nhau, báo động giữa đêm để thực hành nếp sống và tinh thần sẵn sàng di chuyển, sẵn sàng chiến đấu. Tình đoàn kết nội bộ, tương thân, tương ái chính là một trong những bí quyết giúp cho cán bộ cơ quan Bộ Nội vụ vượt qua mọi gian lao thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có đóng góp xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược.

Công tác dân vận cũng được lãnh đạo và toàn thể cán bộ cơ quan Bộ Nội vụ đặc biệt quan tâm. Cơ quan Bộ đã phân công một số cán bộ có năng lực tốt nhất chuyên trách trong các giao thiệp với chính quyền và nhân dân sở tại. Ngoài ra, các cán bộ khác cũng đều tham gia thường xuyên thăm hỏi, giúp đỡ bà con tổ chức cuộc sống mới, mở một số lớp bình dân học vụ giúp bà con học chữ quốc ngữ... Chính vì vậy, cán bộ cơ quan Bộ được nhân dân Việt Bắc thực sự yêu mến, quý trọng.

Một trong những yếu tố góp phần to lớn động viên tinh thần cố gắng, rèn luyện tác phong phẩm chất và hăng say công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ của lãnh đạo và cán bộ Bộ Nội vụ chính là tình cảm và sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người thường ghé thăm cơ quan Bộ, kiểm tra nếp sống và công tác của cán bộ cơ quan Bộ, thân mật trò chuyện, nhắc nhở những việc sai phạm hoặc việc làm chưa tốt, cùng vui chơi thể thao, dự lửa trại và cùng ăn cơm với cán bộ, nhân viên cơ quan, những tình cảm đầm ấm của Người được đọng mãi trong tâm trí cán bộ của Bộ Nội vụ.

Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến, nhân sự của Bộ Nội vụ có nhiều biến động quan trọng. Cuối năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng bị ốm nặng rồi qua đời vào ngày 21-4-1947. Cụ Huỳnh mất đi là một tổn thất lớn đối với cách mạng Việt Nam, với Chính phủ và nhân dân ta nói chung và đối với Bộ Nội vụ nói riêng. Cũng trong thời gian đó Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam chẳng may tử nạn tại Gềnh Quýt, trên sông Lô, gần thị xã Tuyên Quang. Đây lại là một tổn thất lớn đối với Chính phủ và đặc biệt đối với Bộ Nội vụ. Nhằm kịp thời bổ sung lãnh đạo Bộ, tại phiên họp ngày 30-4-1947, Hội đồng Chính phủ đã thông qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông Tôn Đức Thắng, một cán bộ Đảng lão thành có uy tín rất lớn, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Trần Duy Hưng giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ và ông Khuất Duy Tiến giữ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ. Tới ngày 9-11-1947, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Phan Kế Toại, một nhân sĩ yêu nước từng giữ chức Khâm sai đại thần của triều Nguyễn tại Bắc Kỳ, được cử giữ chức quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay cho ông Tôn Đức Thắng đi nhận công tác khác. Ngày 22-11-1948 Chính phủ cử ông Trần Hữu Dực giữ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ thay cho ông Khuất Duy Tiến. Một thời gian sau đó, ông Phạm Khắc Hoè được cử làm Đổng lý Văn phòng thay cho ông Trần Hữu Dực.

Như vậy là chỉ trong vòng gần hai năm, đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Bộ Nội vụ đã có thay đổi nhiều lần. Trong thời kỳ đầu kháng chiến, đội ngũ cán bộ và nhân viên cấp dưới của Bộ cũng có nhiều thay đổi. Trong suốt thời kỳ đầu kháng chiến (từ đầu năm 1947 đến đầu năm 1949) cơ quan Bộ thường xuyên chỉ có khoảng 20 người, trong đó có khoảng  08 đảng viên.

Về cơ cấu tổ chức, những ngày đầu mới sơ tán tới căn cứ Việt Bắc, Bộ Nội vụ vẫn giữ nguyên cơ cấu, hệ thống tổ chức như lúc còn ở Hà Nội. Cơ quan Bộ vẫn bao gồm Văn phòng và các Nha. Sau khi tạm ổn định ở khu căn cứ, do điều kiện cực kỳ khó khăn, biên chế và cấu trúc cơ quan Bộ phải thu hẹp lại rất nhiều. Nhìn chung, việc tổ chức gọn nhẹ là phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh khó khăn của những ngày đầu ở chiến khu. Tuy nhiên, việc cơ quan Bộ, nhất là các nha chức năng buộc phải thu hẹp biên chế đã ảnh hưởng không tốt tới việc theo dõi và triển khai một số mặt công tác. Hơn nữa, trong thời kỳ trước năm 1950, Bộ Nội vụ vẫn phải kiêm nhiệm, phụ trách rất nhiều công việc nội chính khác nhau, từ xây dựng, bảo vệ, theo dõi tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền, bảo vệ an ninh, cho tới phụ trách tản cư, phụ trách Hoa kiều và ngoại kiều vụ, công tác thông tin - tuyên truyền (bao gồm Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam cho tới cả công tác tuyên truyền xung phong), kiêm luôn cả vấn đề tù hàng binh và trại giam v.v.. Đây là những công việc phức tạp, có tính chất và nội dung khác nhau, và do đó, rõ ràng là hệ thống tổ chức cơ quan Bộ khó mà đáp ứng được các yêu cầu cấp thiết của công việc.

Để khắc phục tình hình khó khăn trên Bộ Nội vụ đưa ra một số giải pháp như:  chủ trương phân cấp mạnh nhiệm vụ cho các Uỷ ban hành chính kháng chiến các khu và các tỉnh; thiết lập cơ chế liên thông với các Bộ khác, nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính trong tổ chức chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ; từ khoảng giữa năm 1948 Bộ Nội vụ đã tích cực kiện toàn bộ máy hiện có, bổ sung thêm một số cán bộ cho Nha Công chức và Kế toán và Nha Pháp chính. Nhờ đó các công tác của cơ quan Bộ đã được tiến hành nhanh chóng và có hiệu quả hơn.Bắt đầu từ đầu năm 1949 Bộ Nội vụ đã nghiên cứu cải tổ lại toàn bộ kết cấu tổ chức và cơ chế phân công nhiệm vụ, vận hành công việc của cơ quan Bộ, lấy việc kiện toàn cơ quan Bộ làm thí điểm cho việc kiện toàn toàn bộ cấu trúc và cơ chế vận hành của cơ quan các Bộ khác theo yêu cầu của Chính phủ.

Cũng trong thời gian này, tình hình biên chế của cơ quan Bộ có thay đổi đáng kể. Đầu năm 1949 tổng số cán bộ của cơ quan Bộ là 20 người. Bắt đầu từ tháng 5-1949 cơ quan Bộ được tăng cường thêm 10 người nữa, và cho đến cuối năm 1949 là 28 người.

Theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Nội vụ thì nhờ có cuộc cải tổ trên mà công việc của cơ quan Bộ Nội vụ tiến triển với hiệu quả cao hơn trước rất nhiều. Sau đó, mô hình tổ chức cơ quan Trung ương này của Bộ Nội vụ đã được phổ biến và áp dụng cho nhiều Bộ khác trong Chính phủ.

2. Từng bước hoàn chỉnh cơ cấu chính quyền kháng chiến

Mặc dù đất nước trong tình trạng chiến tranh, nhưng Bộ Nội vụ đã góp phần đảm bảo không làm đảo lộn cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ, bộ máy hành chính Trung ương không ngừng được củng cố và kiện toàn.

Trong điều kiện đất nước chiến tranh, việc vận hành bộ máy chính quyền rất khó khăn, nhất là ở những vùng địch tạm chiếm hoặc ở các khu căn cứ xa căn cứ địa Việt Bắc. Trong khi đó yêu cầu tập trung, thống nhất cao, nhằm giải quyết nhanh chóng một khối lượng công việc lớn, cấp thiết, nên việc tổ chức liên thông, liên ngành các Bộ theo từng mảng công việc là cần thiết, đạt hiệu quả và hiệu suất cao của bộ máy. Tuy nhiên công tác tổ chức này mang tính phức tạp, không chỉ đòi hỏi trình độ và tác phong làm việc tích cực, chủ động của cán bộ thuộc cơ quan chính quyền các cấp, từ Trung ương đến địa phương; điểm mấu chốt để cải tổ toàn bộ cơ chế vận hành chính là phối thuộc, liên thông các hoạt động của các cơ quan quyền lực Trung ương. Ngày 25-1-1949, theo đề xuất của Bộ Nội vụ, Hội đồng Chính phủ đã quyết định lập bốn ban lớn, thực hiện liên thông hoạt động giữa các Bộ. Đây là một giải pháp sáng tạo cực kỳ quan trọng, nhằm tạo ra cơ chế vận hành vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, do đó, đã phát huy cao độ công năng của hệ thống chính quyền kháng chiến. Bốn ban đó là: Ban Quân sự gồm: Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tư lệnh; Ban Nội chính gồm: Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao; Ban Kinh tế gồm: Bộ Kinh tế, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính, Bộ Canh nông, Bộ Lao động; Ban Giáo dục - văn hoá - xã hội gồm: Bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Thương binh, Cứu tế”.

Đồng thời với việc cải tiến cơ chế liên thông trong vận hành chính quyền Trung ương, công tác củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở ở các địa phương càng cấp thiết hơn và có ý nghĩa rất quan trọng. Trên cơ sở 115 điều quy định tổ chức chính quyền nhân dân địa phương do Uỷ ban nghiên cứu tổ chức chính quyền địa phương soạn thảo và đã được Hội đồng Chính phủ thông qua trong Sắc lệnh số 63 (22-11-1945), Bộ Nội vụ đã đề ra nhiều quyết sách phù hợp mang lại hoạt động hiệu quả của hệ thống chính quyền các cấp. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản để Bộ Nội vụ triển khai chủ trương, kế hoạch củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong những năm 1947-1950.

Khi thực dân Pháp mở rộng cuộc chiến tranh, kháng chiến được xác định là nhiệm vụ hàng đầu, nên hình thức  tổ chức chính quyền và tên gọi của Uỷ ban hành chính không còn phù hợp. Ngay sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 28-12-1946, Bộ Nội vụ cùng Bộ Quốc phòng ra Thông lệnh liên Bộ quy định việc tổ chức chính quyền trong thời kỳ đất nước có chiến tranh. Thành lập Uỷ ban bảo vệ, làm nhiệm vụ phối hợp các lực lượng quân sự, hành chính, chuyên môn để bảo vệ đất nước. Sau đó, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam cùng với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp ký Thông lệnh đổi Uỷ ban dân chính các cấp (tức Uỷ ban bảo vệ các cấp) thành Uỷ ban kháng chiến các cấp. Như vậy, bên cạnh Uỷ ban hành chính còn có Uỷ ban kháng chiến các cấp (từ cấp khu cho tới cấp xã và liên xã). Thông qua cách tổ chức lại chính quyền địa phương này, chính quyền trung ương bắt đầu thực hiện phân quyền hành chính mạnh cho các cấp dưới. Cũng theo đề xuất của Bộ Nội vụ, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thay đổi cách tổ chức chính quyền cấp xã bằng cách gộp hai đến năm xã thành liên xã. Cơ cấu chính quyền trở nên gọn nhẹ, tập trung hơn.

Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho thấy cơ chế "hai chính quyền" ở địa phương có nhiều bất cập.Để khắc phục tình hình trên, tại Hội nghị hành chính toàn quốc (tháng 2-1947), theo kiến nghị của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã quyết định đề cao hơn vai trò của hành chính, đề nghị nghiên cứu để có sự phân công rõ ràng hơn giữa hành chính và kháng chiến.  Theo sự chỉ đạo đó của Chính phủ, Bộ Nội vụ trình Hội đồng Chính phủ Dự thảo Sắc lệnh về việc hợp nhất Uỷ ban kháng chiến và Uỷ ban hành chính thành Uỷ ban kháng chiến hành chính. Ngày 1-10-1947, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 91/SL thống nhất tên gọi Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính ở tất cả các cấp chính quyền cơ sở. Thực tế trong thời kỳ kháng chiến càng đòi hỏi việc thống nhất và tập trung quyền hành trong các cấp chính quyền, ngày 25-2-1948, Bộ Nội vụ đã đề nghị lên Chính phủ ra Sắc lệnh sáp nhập các khu thành các liên khu theo như khu quân sự và đổi thành Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính liên khu. Xuất phát từ thực tiễn điều hành công tác tổ chức hệ thống chính quyền cơ sở trên cả nước trong thời kỳ kháng chiến, Bộ Nội vụ đã nắm bắt được yêu cầu của thực tiễn, chỉ đạo việc đổi mới tổ chức hệ thống chính quyền các cấp sao cho phù hợp với tình hình. Với một khoảng thời gian chưa đầy hai năm, trong điều kiện chiến tranh, Bộ Nội vụ đã giúp Chính phủ xây dựng và kiện toàn một bước hệ thống chính quyền các cấp. Thông qua đó, chính quyền dân chủ nhân dân các cấp không những đã xứng đáng với vai trò tổ chức, chỉ huy cuộc kháng chiến, kiến quốc tại địa phương mà còn chứng tỏ trong thực tế rằng dù khó khăn, gian khổ đến đâu, Chính phủ vẫn “không bỏ dân bơ vơ” đúng như huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh – chính quyền đó thực sự là chính quyền của dân, do dân và  vì dân.

Đầu năm 1949 (từ ngày 15 đến ngày 17-1-1949), Hội nghị  cán bộ Trung ương lần thứ sáu đã dành một phần đáng kể thời gian để bàn về việc củng cố chính quyền nhân dân. Theo chỉ đạo của Chính phủ, cùng với các bộ có liên quan, Bộ Nội vụ đóng vai trò chủ đạo xây dựng kế hoạch để từng bước tiếp tục củng cố và xây dựng chính quyền các cấp.

 Trong năm 1949, Bộ Nội vụ đã ra nhiều thông tư, nghị định, thông cáo để chỉ đạo chính quyền các cấp tổ chức bầu cử.

Cùng với việc củng cố chính quyền cách mạng ở các địa phương, căn cứ vào tình hình thực tế ở mỗi khu, tỉnh, huyện và tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kháng chiến, trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban kháng chiến hành chính sở tại, Bộ Nội vụ đã có nhiều văn bản nhằm tổ chức lại các đơn vị hành chính và xác định lại địa giới hành chính của một số địa phương.

Như vậy, chỉ trong một thời gian rất ngắn, Bộ Nội vụ đã chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời việc tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan kháng chiến hành chính cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Trên cơ sở đó, hệ thống tổ chức chính quyền ở các khu, tỉnh được kiện toàn lại; địa giới hành chính ở một số nơi cũng được phân định lại hợp lý hơn.

Ngay từ buổi đầu thành lập chính quyền, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến, Bộ Nội vụ đã nhận thức sâu sắc vấn đề để đảm bảo sự vận hành thông suốt của bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở thì vai trò của cán bộ, công nhân viên chức nhà nước là quyết định. Trong đó, việc đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức có ý nghĩa quyết định sự thành công khi thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ.

Trước hết Bộ Nội vụ tập trung vào công tác sắp xếp và sử dụng công chức nhà nước theo yêu cầu kháng chiến. Ngày 12-1-1947, Thứ trưởng Hoàng Hữu Nam đã ký Thông tư gửi tới các Uỷ ban kháng chiến khu và tỉnh yêu cầu chỉ giữ lại số nhân viên tối thiểu ở lại các uỷ ban, còn lại trưng dụng, nhất là đối với những công chức có năng lực làm các công tác thích hợp phục vụ kháng chiến ở địa phương. Công tác này nhằm tập trung lực lượng cho công cuộc kháng chiến, tránh tình trạng cồng kềnh trong bộ máy hành chính nhà nước. Đến cuối năm 1950, thực hiện chủ trương sắp xếp lại các cơ quan Trung ương đến địa phương không trực tiếp phục vụ tổng phản công thì thu gọn lại hoặc tạm bỏ, Bộ Nội vụ đã ra Thông tư số 56-NV/6 quy định các công chức thôi việc vì giản chính có thể gia nhập quân đội, hoặc chuyển sang những ngành thiếu cán bộ, hoặc được hưởng phụ cấp thôi việc. Đồng thời Bộ Nội vụ đã nghiên cứu lập một dự án sắc lệnh mới về chế độ công chức và lương bổng.  Bộ Nội vụ tập trung vào các mục tiêu cụ thể: cải thiện đời sống công chức; thống nhất chế độ lương bổng và phụ cấp cho công chức; trọng dụng nhân tài; đảm bảo quyền lợi cho công chức, đồng bào miền núi, phụ nữ và những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu và đệ trình của Bộ Nội vụ, ngày 29-5-1948, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 188/SL xếp ngạch và hạng lương cho công chức. Giữa năm 1950, Bộ Nội vụ đã chuẩn bị cho sự ra đời quy chế cụ thể về công chức được Chính phủ ban hành ngày 20-5-1950. Sắc lệnh số 76/SL bao gồm 7 chương, 92 điều  quy định về nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm của công chức, đồng thời xác định những nguyên tắc căn bản và tổng hợp các vấn đề về công chức cũng như các vấn đề về khen thưởng và xử phạt công chức. Việc ra đời Sắc lệnh công chức đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về xây dựng đội ngũ công chức nhà nước trong điều kiện có chiến sự. Sự đồng bộ giữa nhân sự và cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước là điều kiện cần thiết để bộ máy chính quyền vận hành có hiệu quả.

3. Xây dựng hệ thống văn bản pháp quy

Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của Bộ Nội vụ là, cùng với các Bộ và các ngành xây dựng hệ thống văn bản pháp quy nhằm nâng cao năng lực quản lý và làm việc của hệ thống tổ chức chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Trong những năm 1949 - 1950, Bộ Nội vụ đã đệ trình lên Chủ tịch nước nhiều dự thảo sắc lệnh, và ban hành nhiều nghị định, thông tư, thông báo nhằm sửa đổi hoặc bổ sung những điều luật có liên quan trực tiếp đến việc hoàn thiện hệ thống tổ chức chính quyền. Cùng với việc củng cố hệ thống tổ chức, vấn đề  sử dụng và đào tạo cán bộ trong các cơ quan công quyền luôn luôn được Bộ Nội vụ coi trọng, Bộ cũng đã ban hành nhiều văn bản về chính sách sử dụng, đào tạo cán bộ, công chức trong thời kỳ kháng chiến.

Như vậy, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, Bộ Nội vụ có một vị trí hết sức đặc biệt và cũng đã  hoàn thành nhiều công tác đặc biệt, đó là xây dựng và góp phần xây dựng một khối lượng văn bản lớn có quan hệ trực tiếp đến nhiều hoạt động của chính quyền. Các văn bản này đã giúp cho công tác tổ chức và quản lý của bộ máy chính quyền ngày càng quy củ, chặt chẽ và phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Đây là một đóng góp quan trọng của Bộ Nội vụ vào công cuộc xây dựng nền pháp chế Việt Nam nói chung và trong thời đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng. Hệ thống pháp chế ấy là cơ sở cho việc củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức chính quyền mà Bộ Nội vụ phải đồng thời cùng thực hiện.

4. Bộ Nội vụ với những công tác khác phục vụ kháng chiến - kiến quốc

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, công tác đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ giao cho Bộ Nội vụ tổ chức và theo dõi thực hiện. Kinh nghiệm chỉ đạo và thực hành lĩnh vực này ngay từ khi chính quyền cách mạng phải đối phó với nạn ngoại xâm và nội phản đã giúp cho Bộ Nội vụ tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ này trong thời kỳ kháng chiến.

Địa điểm di tích Bộ Nội vụ, thôn Yên Thượng, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (1948-1950).

 

Cán bộ, công chức Bộ Nội vụ thời kỳ ATK Tân Trào (1947-1954).

 

 
Cán bộ, công chức Bộ Nội vụ làm việc trên chiến khu (năm 1947)
 

 

 
Liên Việt (Liên hiệp quốc dân Việt Nam) tại Định Hóa, Tuyên Quang 1948. Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh cùng các đại biểu dự Hội nghị.
 

Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, theo Nghị định của Bộ Nội vụ ngày 18-4-1946, ngành công an được tổ chức theo hệ thống dọc. Ở Trung ương có Nha Tổng giám đốc (gọi là Nha Công an), trực thuộc Bộ Nội vụ. Ở cấp kỳ có sở giám đốc, cấp tỉnh có ty công an. Sau khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, những ngày đầu hệ thống tổ chức của ngành công an nhất thời bị xáo trộn mạnh. Bộ Nội vụ ra quyết nghị giải tán công an kỳ, nhập các cán bộ và nhân viên về công an các khu. Như vậy là trong điều kiện chiến tranh, hệ thống tổ chức theo ngành dọc của công an đã tạm thời bị đứt gãy, gây xáo trộn mạnh, không thể đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của công cuộc bảo vệ an ninh trong thời chiến. Nhằm khắc phục tình hình trên, ngày 19- 3- 1947 Bộ Nội vụ đã trình để Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 31-SL sửa đổi lại cơ chế tổ chức ngành công an. Triển khai Sắc lệnh đó, ngày 13-4-1947 Bộ Nội vụ ra Nghị định cải tổ và định rõ quyền hạn của các cấp công an. Hoạt động của ngành công an từ đây đi dần vào nền nếp, phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Để tổ chức kháng chiến, chống lại thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá - tuyên truyền, Bộ Nội vụ đã được Chính phủ giao nhiệm vụ phối hợp với các Bộ khác tổ chức các hoạt động văn hoá, truyền thông phong phú nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, tự lực, tự cường trong mọi tầng lớp nhân dân, cùng đồng cam cộng khổ sát cánh bên Chính phủ, tố cáo mọi âm mưu, tội ác của bè lũ đế quốc và tay sai ; đồng thời góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế giới.

Trong những năm kháng chiến gian khổ, Đài Tiếng nói Việt Nam vẫn phát huy được thế mạnh thông tin tuyên truyền nhanh, trở thành người bạn tinh thần đối với mỗi người dân Việt Nam. Trong điều kiện đất nước bị chia cắt, thông tin liên lạc vô cùng khó khăn, nhưng Nha Thông tin đã lập được một máy vô tuyến điện phát, nhận có thể liên lạc thẳng với các liên khu. Đó là một thành tích đáng ghi nhận. Hoạt động báo chí cũng trở nên thường xuyên, số lượng phát hành ngày càng tăng nhờ việc tự chế loại giấy in Rônêô. Từ năm 1948 trở đi, nhiều loại báo đã đến thường xuyên với bạn đọc. Nội dung bài viết cũng trở nên phong phú hơn. Đáng kể trong các tờ nhật báo đã có chuyên mục điểm báo, đề cập những khuyết điểm của hoạt động thông tin, phê bình và định hướng phát triển ngành trong cả nước.

Khoảng thời gian từ đầu năm 1947 tới giữa năm 1950 là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống cuộc lại cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp, với tư cách là một Bộ trong Chính phủ kháng chiến, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, Bộ Nội vụ đã lập được nhiều thành tích to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của toàn dân tộc.

 

Lịch sử Bộ Nội vụ

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Học viện Hành chính Quốc gia trong lịch sử 75 năm của Bộ Nội vụ - định hướng phát triển thời gian tới

Ngày đăng 22/09/2020
Trường Hành chính Trung ương (nay là Học viện Hành chính Quốc gia trực thuộc Bộ Nội vụ) được thành lập theo Nghị quyết số 214-NV ngày 29/5/1959 của Thủ tướng Chính phủ (do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại ký). Đây là cơ sở đào tạo cán bộ hành chính đầu tiên ở nước ta.

Quản lý nhà nước về văn thư, lưu trữ trong 75 năm xây dựng và phát triển của Bộ Nội vụ

Ngày đăng 22/09/2020
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước có điều kiện phát triển, trong đó có quản lý nhà nước về văn thư, lưu trữ. Trong hoàn cảnh khó khăn của thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng Tám, những chủ trương về xây dựng chính quyền và xây dựng nền văn hóa mới đã tạo cơ sở để Đảng và Nhà nước ta đề ra các chính sách, biện pháp chỉ đạo cần thiết đối với công tác văn thư, lưu trữ.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội phát huy truyền thống 75 năm của Bộ Nội vụ trong hoạt động đào tạo nhân lực ngành Nội vụ

Ngày đăng 23/09/2020
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Nội vụ. Đến nay, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã có chiều dài lịch sử 49 năm xây dựng và phát triển.

Xây dựng chính quyền địa phương trong sạch, vững mạnh - một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của ngành Tổ chức nhà nước

Ngày đăng 23/09/2020
Quá trình 75 năm xây dựng và phát triển của ngành Nội vụ nói chung, Bộ Nội vụ nói riêng luôn gắn với công tác xây dựng chính quyền địa phương. Ngay từ khi mới được thành lập (ngày 28/8/1945), Bộ Nội vụ đã được giao nhiệm vụ tập trung vào công tác xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng của nhân dân. Đây là nhiệm vụ được Bộ Nội vụ thực hiện xuyên suốt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Bộ Nội vụ với việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án Văn hóa công vụ

Ngày đăng 23/09/2020
Văn hóa công vụ có vai trò rất quan trọng trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước và việc thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng văn hóa công vụ nhằm hướng tới hình thành phong cách ứng xử chuẩn mực; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm tính nghiêm túc và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Tiêu điểm

Cải cách hành chính nhà nước hướng tới sự hài lòng của người dân

Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, gần 40 năm qua, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối về đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là cải cách nền hành chính nhà nước. Nghị quyết các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ đổi mới (năm 1986) đến nay đều khẳng định cải cách hành chính nhà nước là chủ trương nhất quán, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.