Hà Nội, Ngày 26/04/2024

Phát triển nhân lực xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật của ngành Tư pháp

Ngày đăng: 29/09/2020   15:59
Mặc định Cỡ chữ
Bài viết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long trong khuôn khổ Hội thảo khoa học "Phát triển nhân lực hành chính nhà nước" do Tạp chí Tổ chức nhà nước chủ trì giúp lãnh đạo Bộ Nội vụ tổ chức, nêu lên những định hướng lớn và giải pháp trọng tâm phát triển nhân lực xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật của ngành Tư pháp góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

1. Thực trạng nhân lực xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật của ngành Tư pháp

1.1. Về quy mô nhân lực

Tính đến ngày 31/12/2019, toàn ngành Tư pháp có 37.675 biên chế cán bộ, công chức, viên chức, trong đó Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý 10.891 biên chế (Bộ Tư pháp có 621 biên chế công chức hành chính, 1.162 viên chức sự nghiệp; hệ thống cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc có 9.088 công chức). Ngoài ra, Bộ còn quản lý chuyên môn nghiệp vụ các cơ quan tư pháp địa phương với 25.244 công chức, viên chức (các Sở Tư pháp có 4.305 công chức, viên chức, người lao động; các Phòng Tư pháp cấp huyện có 2.848 công chức; công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã có 18.091 người)(1). Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp còn theo dõi, quản lý công tác pháp chế với số lượng 8.546 người (các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có 4.173 người; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có 2.242 người, các doanh nghiệp nhà nước có 1.801 người)(2). Đồng thời, trong tiến trình thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ công tác tư pháp, xuất hiện nhiều lĩnh vực bổ trợ tư pháp như công chứng, đấu giá, thừa phát lại, luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý nên Bộ Tư pháp còn thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước đối với hàng chục nghìn người thuộc đối tượng này.

1.2. Về chất lượng nhân lực

Thực trạng trình độ nguồn nhân lực ngành Tư pháp cho thấy: tính đến tháng 12/2019, Bộ Tư pháp có 132 công chức giữ ngạch chuyên viên cao cấp; 1.821 công chức giữ ngạch chuyên viên chính và tương đương; 7.171 công chức giữ ngạch chuyên viên; số còn lại giữ ngạch cán sự. Giáo sư có 04 người; phó giáo sư có 38 người; trình độ trên đại học có 1.232 người; cử nhân là 8.584 người(3). Đối với các cơ quan tư pháp địa phương có 81 công chức giữ ngạch chuyên viên cao cấp; 1.197 công chức giữ ngạch chuyên viên chính; 5.875 công chức giữ ngạch chuyên viên; 19.231 công chức có trình độ đại học trở lên chuyên ngành luật; 1.932 công chức có trình độ đại học chuyên ngành khác trở lên; 3.408 công chức có trình độ trung cấp luật trở lên(4). Trình độ lý luận chính trị; quản lý nhà nước; ngoại ngữ; tin học... của đội ngũ công chức ngành Tư pháp về cơ bản đáp ứng tốt yêu cầu, qua đó góp phần quan trọng vào việc hình thành nguồn nhân lực có bản lĩnh chính trị vững vàng và hỗ trợ nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ.

Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và hội nhập quốc tế thì chất lượng nhân lực xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật của ngành Tư pháp (từ đây viết tắt là nhân lực ngành Tư pháp) cần phải được tăng cường một cách toàn diện và nâng cao hơn nữa về chất lượng. Cụ thể là, do phải đáp ứng yêu cầu trước mắt về nguồn nhân lực cho xã hội, cùng với những hạn chế về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chương trình và phương pháp đào tạo... nên chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Tư pháp còn một số bất cập. Nhiều công chức có trình độ, chuyên môn sâu và kinh nghiệm công tác đã đến tuổi nghỉ hưu, tạo ra khoảng trống nhất định trong chất lượng nhân lực; lực lượng công chức trẻ của Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp chiếm tỉ trọng tương đối lớn. 

Trong bối cảnh khối lượng công việc ngày càng tăng, Nhà nước thực hiện chính sách tinh giản biên chế mạnh mẽ, các công chức, viên chức trẻ phải hết sức cố gắng để thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, trong khi chưa có điều kiện để tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật chuyên sâu, đào tạo hướng nghiệp và rèn luyện kỹ năng thực hành. Việc đào tạo, bồi dưỡng mới chỉ dừng lại ở kiến thức pháp luật cơ bản hoặc cập nhật, bổ sung quy định mới của pháp luật; do đó yêu cầu xử lý những vấn đề pháp lý phức tạp nảy sinh trong thực tiễn, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một thách thức lớn đối với  nguồn nhân lực hiện nay của ngành Tư pháp.

2. Đánh giá chung về nhân lực ngành Tư pháp

2.1. Những ưu điểm và hạn chế

2.1.1. Ưu điểm

- Việc phát triển nhân lực ngành Tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo qua các nghị quyết và văn bản pháp luật về cải cách lập pháp, cải cách hành pháp và cải cách tư pháp. Qua đó, vị trí, vai trò của ngành Tư pháp được tăng cường, mở rộng và khẳng định vị thế, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội.

- Về cơ bản, nhân lực ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở được kiện toàn, bảo đảm trình độ chuyên môn và một số kỹ năng nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành. Hầu hết nhân lực được đào tạo bài bản, chính quy, có tinh thần trách nhiệm, gắn bó, phục vụ lâu dài vì sự phát triển của ngành và có tinh thần tự học tập nâng cao trình độ mọi mặt nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Đáng chú ý là, phần lớn đội ngũ nhân lực này có độ tuổi còn trẻ (khoảng 65% có độ tuổi dưới 40), có khả năng nắm bắt, lĩnh hội và áp dụng kiến thức mới nhanh, có sự tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc. Bên cạnh đó, nhiều người công tác tại cơ quan tư pháp đã được đào tạo, bồi dưỡng bài bản, có môi trường làm việc thuận lợi, ngày càng có nhiều kinh nghiệm hành nghề; được chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và tinh thần nhiệt huyết, hết lòng vì công việc, yên tâm công tác và cống hiến. 

- Hiện nay, trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, hệ thống pháp luật nói chung, các văn bản pháp luật phục vụ cho phát triển nhân lực ngành Tư pháp nói riêng được xây dựng, ban hành tương đối hoàn chỉnh, có nhiều chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý cho đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp phát triển. 

2.1.2. Hạn chế

- Nguồn bổ sung nhân lực chất lượng cao cho một số vị trí việc làm của các cơ quan trong ngành Tư pháp hiện nay khá khan hiếm, trong khi điều kiện, khả năng thu hút của ngành còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo luật và các chức danh tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của một bộ phận vị trí công việc đòi hỏi trình độ cao.

- Đội ngũ nhân lực ngành Tư pháp còn mỏng về số lượng so với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, dẫn đến tình trạng quá tải về công việc đối với một bộ phận không nhỏ nhân lực này, đặc biệt là ở các cơ quan tư pháp địa phương.

- Chất lượng nhân lực ngành Tư pháp mặc dù đã có bước phát triển cơ bản nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Trình độ chuyên môn không đồng đều, đặc biệt ở cấp huyện và cấp xã còn yếu. Đồng thời, do đội ngũ nhân lực này còn tương đối trẻ, bên cạnh những ưu điểm sẵn có thì hạn chế về kinh nghiệm triển khai nhiệm vụ đã ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác được giao.

- Đội ngũ nhân lực ngành Tư pháp chưa mang tính ổn định, còn có sự biến động (do xin thôi việc, luân chuyển công tác...), số lượng và chất lượng phát triển không cân đối giữa thành thị - nông thôn - miền núi làm ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng nhân lực của ngành. Bên cạnh đó, cơ cấu nhân lực chưa thực sự hợp lý, nhất là còn sự chênh lệch về giới tính (nữ chiếm đa số) phần nào ảnh hưởng đến quá trình triển khai nhiệm vụ của ngành.

2.2. Thời cơ và thách thức

2.2.1. Thời cơ

- Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; vì vậy, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp ngày càng nhận được sự quan tâm đặc biệt, qua đó nâng cao vị thế của ngành Tư pháp. Đồng thời, Việt Nam đang thực hiện xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, minh bạch, công bằng, dân chủ và phục vụ nhân dân, mà một trong những nhiệm vụ quan trọng được xác định là xây dựng đội ngũ nhân lực ngành Tư pháp đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đây là thời cơ rất lớn để tập trung các nguồn lực đầu tư cho phát triển nhân lực ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Chủ trương của Đảng ta về hội nhập quốc tế nhằm đưa đất nước chủ động tham gia sâu rộng vào các lĩnh vực trong các tổ chức quốc tế, các quan hệ quốc tế..., trong đó có hợp tác quốc tế về tư pháp cũng là những thời cơ rất lớn để tăng cường phát triển nhân lực ngành Tư pháp ngang tầm khu vực và thế giới, qua đó bảo vệ một cách tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức Việt Nam trên trường quốc tế. 

- Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực cung cấp cho xã hội và cung cấp cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp ngày càng được tăng cường về số lượng, mở rộng về quy mô và nâng cao về chất lượng, thông qua đó từng bước tạo nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở các cấp. 

2.2.2. Thách thức

- Hội nhập quốc tế ngày càng được đẩy mạnh và mở rộng, nhiều vấn đề pháp lý phức tạp đã, đang và sẽ đặt ra cần được giải quyết, với vai trò là người “gác cổng”, người tư vấn về mặt pháp lý cho Chính phủ và UBND các cấp, đòi hỏi nhân lực ngành Tư pháp phải có trình độ nhất định về pháp luật quốc tế, ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Đây là một thách thức không nhỏ đối với nguồn nhân lực ngành Tư pháp, đặc biệt là nhân lực của cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương khi trình độ ngoại ngữ của đội ngũ này còn hạn chế.

- Sự tăng cường về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư pháp trong những năm tới khi Đảng và Nhà nước ta tiếp tục tập trung cải cách lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, trong đó đẩy mạnh phân cấp quản lý hành chính trong lĩnh vực tư pháp cho chính quyền địa phương, nhất là chính quyền cấp xã là một thách thức lớn đối với nhân lực các cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương hiện nay. 

- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay ngày càng phát triển, mở ra nhiều cơ hội lựa chọn vị trí việc làm cho đội ngũ có trình độ chuyên môn luật. Vì vậy, thách thức đặt ra với nguồn nhân lực ngành Tư pháp là sự khan hiếm về nguồn tuyển dụng. Đồng thời, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của người dân ngày càng cao, mức thu nhập của người hành nghề luật nói chung và luật sư nói riêng đang ngày càng tăng lên, do đó sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút những người có năng lực. Cùng với đó, trách nhiệm ngày càng cao, áp lực ngày càng lớn nhưng chế độ, chính sách đãi ngộ đối với nhân lực ngành Tư pháp chậm đổi mới, thiếu hấp dẫn nên khó khuyến khích, động viên họ yên tâm làm việc, cống hiến. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng là một thách thức đặt ra với nhân lực ngành Tư pháp về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và tinh thần trách nhiệm phục vụ Nhân dân của đội ngũ này.

- Dưới những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, tình trạng tùy tiện, lạm quyền, thoái hóa, biến chất trong một bộ phận công chức, viên chức các cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp vẫn còn tồn tại, nhất là ở một số cấp cơ sở đã làm sai lệch việc thi hành pháp luật, vi phạm pháp luật, tạo thành những rào cản lớn về môi trường làm việc và ảnh hưởng đến uy tín của ngành, của Nhà nước trong Nhân dân.

3. Dự báo nhu cầu phát triển nhân lực ngành Tư pháp

3.1. Nhu cầu tăng thêm số lượng

Những năm gần đây, trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, vấn đề tăng cường nguồn nhân lực có trình độ đang đặt ra đối với tất cả các cơ quan, đơn vị trong ngành Tư pháp. Cụ thể:

- Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, việc đào tạo và bổ nhiệm thêm nhiều luật sư, công chứng viên và các chức danh tư pháp khác đang trở thành yêu cầu cấp thiết.

- Để đáp ứng yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến từng người dân nhằm tăng cường dân chủ ở cơ sở, góp phần làm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh cần phải triển khai mạnh mẽ, quyết liệt. Do vậy, bên cạnh việc nâng cao về chất lượng,  cần tăng cường về số lượng cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước (các bộ, ngành,…), các cơ quan dân cử và các tổ chức, đoàn thể như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... từ Trung ương đến cơ sở.

- Để giữ vững ổn định chính trị - xã hội thì các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong cộng đồng dân cư phải được giải quyết kịp thời, tránh để bùng phát thành những xung đột lớn. Do đó, đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan trong hệ thống chính trị bên cạnh việc trang bị kiến thức pháp luật cần có đủ số lượng nhân sự để giải quyết các công việc kịp thời, đáp ứng nhiệm vụ được giao.

3.2. Nhu cầu nâng cao chất lượng    

Trong những năm qua, chất lượng đào tạo nhân lực về pháp luật ở nước ta còn hạn chế. Hầu hết các cơ sở đào tạo chỉ dừng ở việc trang bị kiến thức pháp luật cơ bản cho người học, chưa có điều kiện đào tạo chuyên sâu, đào tạo hướng nghiệp và rèn luyện kỹ năng thực hành. Kết quả là phần lớn nguồn bổ sung nhân lực ngành Tư pháp chỉ đủ năng lực để thực thi những nhiệm vụ thông thường của công chức, viên chức mà chưa có khả năng xử lý những vấn đề pháp lý phức tạp nảy sinh trong thực tiễn. Việc rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên luật cũng chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều sinh viên ngành luật khi được tuyển dụng chưa phát huy được năng lực và kiến thức, chậm thích ứng với thực tiễn. 

Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và hội nhập quốc tế thì chất lượng nhân lực ngành Tư pháp cần phải được tăng cường một cách toàn diện. Yêu cầu đặt ra đối với công chức, viên chức của ngành là phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật; có kiến thức ngoại ngữ và tin học; có khả năng thực hành; có kỹ năng làm việc nhóm,  đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và bản lĩnh khi tham gia hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp luật đạt trình độ khu vực và thế giới để tham mưu giúp Chính phủ trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật; đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và công dân Việt Nam trong các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Đây là trọng trách to lớn đang đặt ra đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực nhân lực ngành Tư pháp, đòi hỏi công tác này phải được đổi mới mạnh mẽ, toàn diện trong những năm tới nhằm đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và đòi hỏi của xã hội.

Ngoài ra, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân cũng đồng nghĩa với việc tăng cường công tác thanh tra, giám sát của  nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Đội ngũ thanh tra nhân dân, hội thẩm nhân dân các cấp cũng cần được tăng cường kiến thức và nghiệp vụ pháp luật để hoàn thành tốt trọng trách giám sát mà nhân dân giao phó.

4. Quan điểm và giải pháp phát triển nhân lực ngành Tư pháp trong thời gian tới

4.1. Quan điểm

- Phát triển nhân lực ngành Tư pháp là một bộ phận không thể tách rời trong phát triển nguồn nhân lực của đất nước, có tính chiến lược lâu dài và thường xuyên, liên tục gắn liền với việc bố trí, sử dụng, do vậy việc phát triển nhân lực ngành Tư pháp phải đặt trong mối quan hệ hài hòa với phát triển nguồn nhân lực của các ngành, các cấp và địa phương. 

- Phải xuất phát từ thực tiễn gắn với việc thực hiện chiến lược phát triển toàn ngành, là khâu đột phá phát triển ngành Tư pháp, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế; bảo đảm phát huy tối đa thế mạnh của từng cơ quan, đơn vị và địa phương; bảo đảm cân đối, hài hoà giữa các vùng, miền trong toàn quốc; bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, toàn diện, khả thi, kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực hiện có; bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững, có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta. 

- Phát triển nguồn nhân lực ngành Tư pháp là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đồng thời, là quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, đơn vị và cá nhân trong ngành Tư pháp. Những quan điểm, định hướng trên cần được nhanh chóng triển khai để tạo ra bước chuyển biến căn bản trong phát triển nhân lực ngành Tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và hội nhập quốc tế.

4.2. Giải pháp phát triển đội ngũ nhân lực ngành Tư pháp

4.2.1. Về công tác tuyển dụng 

Một là, đổi mới công tác tuyển dụng nhân lực vào làm việc trong ngành Tư pháp theo hướng căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc, vị trí công tác, kết hợp giữa hình thức thi viết với phỏng vấn và xử lý tình huống của từng vị trí công việc cần tuyển. 

Hai là, đổi mới chính sách pháp luật về tuyển dụng, thu hút nhân lực có chất lượng cao bằng các chính sách đột phá. Cụ thể: đối với sinh viên tốt nghiệp đại học, thạc sĩ loại giỏi, những người có trình độ tiến sĩ, những người hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý như luật sư, công chứng viên mà chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc cần tuyển thì sẽ có hình thức tuyển dụng đặc thù (có thể chỉ qua phỏng vấn) vào vị trí cần tuyển dụng (có thể tuyển dụng chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương mà không chỉ vào ngạch tương đương ngạch chuyên viên như hiện nay) để tạo điều kiện thu hút những đối tượng này vào công tác trong ngành Tư pháp. 

Ba là, Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật để phát hiện, có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ quá trình học tập của sinh viên nhằm thu hút, bồi dưỡng tài năng trẻ là sinh viên xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, loại khá về công tác tại cơ quan, đơn vị sau khi tốt nghiệp.

Bốn là, để có cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, đơn vị của ngành, bên cạnh làm tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,… cần xây dựng cơ chế tuyển chọn, tạo sự liên thông giữa các cơ quan trong ngành Tư pháp và xã hội. 

Năm là, trên cơ sở Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Bộ Tư pháp sẽ ban hành văn bản hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp để làm cơ sở bố trí, sắp xếp đội ngũ công chức ngành Tư pháp ở cấp tỉnh, cấp huyện.

Theo đó, thực hiện phương thức tuyển chọn nhân lực có tài, đủ phẩm chất, trình độ từ các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà nước như luật sư, công chứng viên, luật gia, giám định viên tư pháp, thừa phát lại vào làm việc trong các cơ quan thuộc ngành Tư pháp; đồng thời, có thể gửi cán bộ, công chức của ngành Tư pháp đến làm việc tại các tổ chức hành nghề luật, công chứng, giám định,... để tích lũy kinh nghiệm thực tế.

4.2.2. Về cơ cấu lại, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

Một là, phân công, bố trí cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với ngành nghề, chuyên ngành đào tạo, phù hợp với sở trường năng lực của họ, trong đó ưu tiên nguyện vọng cá nhân. Trong phân công công việc cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, gắn nhiệm vụ, quyền hạn với trách nhiệm. Xác định rõ quy trình giải quyết công việc và chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức. 

Thường xuyên đánh giá cán bộ, công chức, viên chức khách quan, trung thực và chính xác; áp dụng chế độ khen thưởng, tôn vinh, động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất sắc, tận tâm, tận lực với công việc; tạo lập môi trường đoàn kết, xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xử lý thích đáng những hành vi vi phạm, những người chây ỳ, thiếu trách nhiệm. 

Tạo ra nhiều cơ hội học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, định hướng phát triển chức nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp. Tăng cường và hiện đại hoá phương tiện, trang thiết bị và điều kiện làm việc, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Tập trung nguồn lực để xây dựng công sở hiện đại theo tiêu chuẩn quy định.

Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác luân chuyển cán bộ ở các cơ quan, đơn vị trong ngành Tư pháp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong diện quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng đơn vị của ngành Tư pháp. Việc luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan trong ngành Tư pháp cần dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện thí điểm thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo cấp vụ, cấp sở và cấp phòng theo nguyên tắc cạnh tranh; lựa chọn người có đức, có tài, bình đẳng, dân chủ, công khai, khách quan, trung thực; tiến tới xây dựng quy chế thi tuyển vị trí lãnh đạo, quản lý sau khi có quy định thực hiện chính thức của Đảng và Nhà nước để mở rộng, áp dụng thống nhất trong các cơ quan thuộc ngành Tư pháp.

4.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp

Tiếp tục tăng cường đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu; đồng thời, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về pháp luật, giỏi ngoại ngữ.

4.2.4. Xây dựng môi trường làm việc, giải quyết chế độ, chính sách, đảm bảo điều kiện làm việc

Cần có chế độ, chính sách về tiền lương, khen thưởng phù hợp để cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp yên tâm công tác.

4.2.5. Đổi mới công tác đánh giá, khen thưởng và kỷ luật 

Đánh giá cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp phải căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức danh; chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ, công chức, viên chức; quan tâm  phát hiện nhân tài để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển thành những công chức chuyên môn, công chức lãnh đạo, quản lý giỏi. Đánh giá cán bộ, công chức phải được xem xét trong một quá trình công tác, gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, là yếu tố thường xuyên trong quá trình quy hoạch, luân chuyển, đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ; có kế hoạch chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, có các bước đánh giá phù hợp, khoa học; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.

Xây dựng quy chế đánh giá công chức, viên chức và người lao động trên cơ sở quy định của pháp luật và xác định cụ thể các tiêu chí đánh giá phù hợp với thực tiễn hoạt động, tổ chức của Bộ Tư pháp, từ đó thực hiện thống nhất công tác đánh giá, đảm bảo công khai, dân chủ, khách quan, đánh giá thực chất, đúng người, đúng việc. Việc khen thưởng phải xuất phát từ kết quả đánh giá và tiêu chuẩn của các hình thức khen thưởng; đảm bảo các hình thức khen thưởng phải thực chất, có tác dụng động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu để khi được khen thưởng thì thấy xứng đáng, tự hào và trách nhiệm trong công tác.

5. Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nhân lực của ngành Tư pháp một cách hiệu quả.

Cần có quy trình đào tạo, bồi dưỡng một cách hợp lý và khả thi nhằm nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và nhân lực ngành Tư pháp nói riêng. Phải kết hợp chặt chẽ các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ để xây dựng  đội ngũ cán bộ, công chức có tâm, có đức, có năng lực và thực sự là công bộc của Nhân dân.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng cao; định kỳ đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo hướng cập nhật kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, có bản lĩnh dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. 

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế thu hút, đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức tham gia công tác xây dựng pháp luật, pháp chế. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế. Kiện toàn tổ chức pháp chế của các bộ, cơ quan ngang bộ cả về tổ chức, hoạt động và nguồn nhân lực. Bảo đảm sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức pháp chế cơ quan bộ, cơ quan ngang bộ với tổ chức pháp chế các đơn vị trực thuộc.

Tăng cường tính chuyên nghiệp trong công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật. Cần có quy định từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động hoạch định chính sách, thực hiện quy phạm hóa chính sách; xây dựng cơ chế thu hút cán bộ có năng lực chuyên môn tham gia công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là cán bộ hoạch định chính sách của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp chính quyền địa phương. Đảm bảo việc tuân thủ trình tự, thủ tục trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, xóa bỏ cách làm mang tính hình thức, đối phó.

Thứ hai, các bộ, cơ quan ngang bộ cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật.

Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao các kỹ năng phân tích, đánh giá tác động, kỹ năng giải trình, kỹ năng kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật… gắn với việc đổi mới cách thức tổ chức công việc để bảo đảm thực hiện có chất lượng, hiệu quả các công tác này.

Coi trọng việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác xây dựng, giải trình, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản; nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập thông tin, phản biện xã hội đối với các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và kịp thời.

Thứ ba, chú trọng đổi mới công tác theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật.

- Tiếp tục kiện toàn và đổi mới về tổ chức, bộ máy, biên chế làm công tác theo dõi thi hành pháp luật. Trong thời gian tới, các bộ, ngành ở Trung ương cần bố trí đủ cán bộ chuyên trách về theo dõi thi hành pháp luật tại Vụ Pháp chế; các địa phương cần thành lập Phòng Pháp chế hoặc bố trí công chức pháp chế chuyên trách tại các sở, ngành theo quy định của pháp luật.

- Tăng cường năng lực, chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức và theo dõi thi hành pháp luật. Với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật có năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, nghề nghiệp thì Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, xây dựng chương trình khung đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ chuyên môn (về chính sách pháp luật, kiến thức và kỹ năng thu thập thông tin và kỹ năng phối hợp giữa các chủ thể trong theo dõi thi hành pháp luật…) cho lực lượng cán bộ, công chức làm công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương.

Các địa phương cần tuyển dụng nhân lực chất lượng cao cho vị trí này từ các ngành khoa học chính sách, luật học có trình độ từ cử nhân trở lên. Bồi dưỡng năng lực về bộ công cụ, hệ thống thông tin, cách thức thu thập thông tin, cách tiếp cận phương pháp làm việc có sự tham gia. Bên cạnh việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, Nhà nước cần có chính sách thỏa đáng về cơ chế, chế độ ưu tiên, thu hút đối với những người làm công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, đồng thời, cần có sự đầu tư đầy đủ, toàn diện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, tạo ra môi trường thuận lợi trong việc tổ chức triển khai hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

- Công tác theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật cần tiếp tục được đổi mới theo định hướng kết quả. Đây là phương thức quản lý mà thông qua đó nhà quản lý xác định các kết quả cần đạt được một cách cụ thể, rõ ràng và dài hạn, định hướng tất cả các nỗ lực và hoạt động vào việc đạt được các kết quả một cách hiệu lực và hiệu quả.

- Bộ Tư pháp nghiên cứu đề xuất thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị như Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác trong quá trình triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật. Trong đó, cần quy định rõ trách nhiệm của từng thiết chế trong việc chỉ đạo tổ chức thi hành pháp luật và cơ chế phối hợp, cung cấp, chia sẻ thông tin về thi hành pháp luật.

- Tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật. Xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật phải trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động của Chính phủ nhằm hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ thực hiện quyền hành pháp của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Theo hướng này, cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Một là, tiếp tục đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; bảo đảm sự tham gia thực chất của người dân đối với hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật; tăng cường quyền tiếp cận công lý và quyền tiếp cận hệ thống pháp luật của người dân. Chuyển trọng tâm chỉ đạo chiến lược từ ưu tiên xây dựng hệ thống pháp luật sang đẩy mạnh tổ chức thi hành pháp luật một cách hiệu lực, hiệu quả. Gắn công tác tổ chức thi hành pháp luật với công tác xây dựng pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng cắt khúc trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Những công việc chuẩn bị cho tổ chức thi hành pháp luật phải được thực hiện song song với giai đoạn soạn thảo luật. 

Việc đánh giá điều kiện bảo đảm thi hành pháp luật (về tổ chức bộ máy, nhân sự, trang thiết bị, ngân sách và các điều kiện đảm bảo khác để tổ chức thi hành pháp luật) phải được thực hiện nghiêm túc từ khâu đề xuất và thông qua chính sách. Thực hiện nghiêm túc quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Luật số 63/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là văn bản hướng dẫn thi hành luật phải được ban hành đồng thời với văn bản luật. Đảm bảo tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật.

Hai là, quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chí đánh giá về theo dõi thi hành pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật; cơ chế phối hợp liên ngành và xác định trách nhiệm pháp lý trực tiếp đối với các cơ quan ngoài hệ thống hành pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 giao trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và của UBND các cấp trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật. Nghiên cứu xây dựng, ban hành luật về công tác này trong thời gian tới để thực hiện một cách thống nhất, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.

Thứ tư, về xây dựng, hoàn thiện thể chế.

- Đề nghị Bộ Nội vụ sớm trình Chính phủ ban hành chính sách cải cách tiền lương phù hợp đối với công chức, viên chức, người lao động theo từng thời kỳ nhằm đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của công chức, viên chức, người lao động, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Qua đó, góp phần hỗ trợ, cải thiện cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức nói chung và của Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp nói riêng yên tâm công tác, làm việc và cống hiến.

- Bộ Nội vụ sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia thu hút, trọng dụng nhân tài với các chính sách mang tính  đột phá, đủ tầm để thu hút và giữ chân người tài cũng như đảm bảo tính chặt chẽ, minh bạch, công bằng.

Thứ năm, đảm bảo sự đồng bộ giữa sắp xếp, đổi mới tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Việc sắp xếp, đổi mới tổ chức bộ máy cần phải tiến hành đồng bộ, phù hợp với việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Xác định nội dung cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm nền tảng để thực hiện cho phù hợp, thống nhất nhằm tạo ra một thể thống nhất giữa nhân sự và bộ máy, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy dựa trên việc sắp xếp, sử dụng đúng người, đúng việc./.

----------------------------

Ghi chú: 

(1), (2) Số liệu tại Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2020 tổng kết công tác tư pháp năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2020.

(3) Qua theo dõi, tổng hợp số liệu của các đơn vị thuộc Bộ đến tháng 12/2019.

(4) Qua theo dõi, tổng hợp số liệu của 63 địa phương đến tháng 10/2019.

 

TS LÊ THÀNH LONG - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.