Hà Nội, Ngày 12/06/2024

Bồi dưỡng công chức cấp xã để nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ hành chính công

Ngày đăng: 22/03/2018   14:36
Mặc định Cỡ chữ

1. Vai trò của công chức cấp xã trong cung ứng dịch vụ hành chính công

Công chức cấp xã là những người gần gũi và sát sao với đời sống của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có đến được với nhân dân hay không đều thông qua đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã được quyết định bởi phẩm chất, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Khi điều kiện kinh tế - xã hội trên thế giới và các quốc gia có sự biến đổi, xu thế dân chủ hóa và đòi hỏi của nhân dân đối với nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công ngày càng cao hơn, khi đó nhà nước có trách nhiệm phục vụ nhân dân, thể hiện bằng các hoạt động cung ứng dịch vụ công của nhà nước cho các tổ chức và công dân. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng phi tập trung hóa trách nhiệm quản lý từ chính quyền trung ương sang chính quyền địa phương ngày càng được mở rộng; sự phân quyền cho chính quyền địa phương tập trung mạnh vào lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, đó là các hoạt động mang tính chất phục vụ trực tiếp đời sống nhân dân.

Cùng với đó, vai trò và trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong hoạt động phục vụ nhân dân ngày càng được nâng lên. Một trong những hoạt động đó là cung cấp các dịch vụ hành chính công như: khai sinh, khai tử, đăng ký kết hôn, đăng ký hộ tịch, chứng thực, xác nhận, xử lý các vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật, hòa giải các tranh chấp trong nhân dân...

 Hoạt động thực thi công vụ của công chức cấp xã mang tính đa dạng, phức tạp. Công chức cấp xã phải giải quyết tất cả các công việc trong đời sống xã hội, mang tính thường xuyên, đặc biệt là cung ứng các dịch vụ hành chính công tại địa phương đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người dân.

Công chức cấp xã phần lớn là người trưởng thành từ địa phương, am hiểu các phong tục tập quán, truyền thống của địa phương, đồng thời là công dân; người đại diện của cộng đồng, đại diện cho Nhà nước... Những vai trò này vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn, có thể xung đột trong hoàn cảnh cụ thể, nên ít nhiều có tác động, chi phối tới hoạt động công vụ của công chức, nhất là trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân - cộng đồng - nhà nước.

2.  Thực trạng cung ứng dịch vu hành chính công ở cấp xã

Trong những năm qua, dịch vụ hành chính công luôn được UBND cấp xã quan tâm và tập trung nâng cao chất lượng cung ứng, coi đó là một khâu quan trọng trong thực hiện cải cách nền hành chính theo hướng hiện đại, hiệu quả. Nhiều địa phương đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, công nghệ thông tin tiên tiến vào hoạt động cung ứng dịch vụ. Chi phí thời gian, tiền bạc của tổ chức, công dân khi sử dụng dịch vụ đã giảm nhiều, việc tiếp cận các quy trình và thông tin về dịch vụ cũng dễ dàng và thuận tiện. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được áp dụng rộng rãi ở UBND xã, phường, thị trấn giúp cho người dân không phải đi lại quá nhiều để làm các thủ tục hành chính...

Tuy chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công ở cấp xã đã được nâng lên, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, hạn chế mang tính chủ quan. Đó là:

- Theo Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2015 (SIPAS 2015)(1) do Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam thực hiện, vẫn còn nhiều người dân chưa hài lòng về đạo đức công vụ, về sự phục vụ nhiệt tình của công chức cấp xã; sự thành thạo và tuân thủ quy trình cung ứng dịch vụ hành chính công còn chưa cao; đặc biệt tình trạng người dân phải trả tiền thêm ngoài khoản phí và lệ phí theo quy định vẫn còn tương đối phổ biến. Cụ thể:

- Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)(2) do Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES), Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (VFF-CRT) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) thực hiện điều tra hàng năm tại hơn 400 đơn vị xã, phường, thị trấn với khoảng 14.000 người dân cho thấy chỉ số dịch vụ hành chính công cấp xã tiến triển không đáng kể từ năm 2011 cho đến 2015. Chất lượng dịch vụ chứng thực, xác nhận của UBND cấp xã năm 2015 có xu hướng giảm so với bốn năm trước, cùng với đó là sự thiếu công khai, minh bạch về phí và lệ phí khi làm thủ tục hành chính là nguyên nhân chính dẫn tới mức độ hài lòng của người sử dụng dịch vụ này giảm xuống, đồng thời yếu tố năng lực thực hiện công việc của công chức cấp xã chưa được người dân đánh giá cao. Chỉ số PAPI cho thấy một vấn đề tương đối nghiêm trọng là mức độ chịu đựng tham nhũng của người dân khi sử dụng các dịch vụ công, trong đó có dịch vụ hành chính công ngày càng tăng lên. Đây là những điểm hạn chế xuất phát từ phía chủ quan của đội ngũ công chức cấp xã khi cung ứng các dịch vụ hành chính công cho tổ chức và công dân.

3. Nguyên nhân của những tồn, tại hạn chế

Thứ nhất, một bộ phận công chức cấp xã còn giải quyết công việc theo ý chí chủ quan, việc ứng xử với nhân dân, với cộng đồng còn nặng về tập quán, thói quen, tình cảm; làm việc thụ động, cầm chừng, trách nhiệm không cao,…  Vì thế, chỉ có 73% người dân hài lòng với sự tận tình, chu đáo của công chức và không đến 70% người dân hài lòng về giao tiếp lịch sự, đúng mực của công chức.

 Cùng với đó, một bộ phận công chức chưa nhận thức được đầy đủ sự thay đổi về nhiệm vụ, cách thức cung ứng dịch vụ hành chính cho công dân trong bối cảnh xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân, mà vẫn còn thói quen theo cơ chế xin - cho, ban phát, quan liêu, nhũng nhiễu... Có đến 28,4% người dân khẳng định phải trả thêm tiền ngoài phí và lệ phí theo quy định ở dịch vụ cấp giấy khai sinh. Việc người dân phải trả thêm tiền không chỉ xảy ra ở một vài nơi, làm cho chất lượng cung ứng dịch vụ bị méo mó và niềm tin của người sử dụng dịch vụ giảm sút đáng kể.

Thứ hai, theo số liệu số liệu của Bộ Nội vụ tại thời điểm năm  2013(3), đội ngũ công chức cấp xã cả nước có 111.496 người. Trong đó, có 8.507 công chức (chiếm 7,63%) chưa qua đào tạo chuyên môn; công chức có trình độ sơ cấp là 2.409 người (chiếm 2,16%); trung cấp là 66.251 người (chiếm 59,42%); còn một bộ phận công chức có trình độ từ trung cấp trở lên nhưng chuyên môn không phù hợp với vị trí việc làm đang đảm nhiệm; vẫn còn tình trạng công chức cấp xã đi học chỉ nhằm đủ tiêu chuẩn theo quy định; chưa được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống, chưa chịu khó học tập, rèn luyện, tác phong công tác, nề nếp làm việc chuyển biến chậm.

Thứ ba, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của công chức còn nhiều hạn chế nên làm việc theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông nhưng vẫn chưa thay đổi được tư duy và cách thức làm việc; chưa nhận thấy được lợi ích và sự cần thiết của việc cung ứng dịch vụ công trực tuyến. Vì vậy, chỉ có 69,3% người dân cảm thấy dễ dàng, thuận tiện trong việc tìm hiểu thông tin về dịch vụ hành chính, trong đó chỉ có từ 4% đến 8% người dân sử dụng hình thức tiếp cận thông tin về dịch vụ hành chính công bằng phương tiện điện tử.

Thứ tư, còn hiện tượng công chức cấp xã chưa nắm vững những đặc tính cơ bản của nền hành chính nước ta, đặc biệt là đặc tính: hành chính nhà nước có bổn phận phục vụ sự nghiệp phát triển cộng đồng và nhu cầu thiết yếu của công dân. Đó là một nền hành chính công tâm, trong sạch, không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao. Một số công chức tuy có trình độ nhưng năng lực có mặt còn hạn chế, đặc biệt là năng lực, kỹ năng hành chính.

Thứ năm, việc bồi dưỡng theo vị trí việc làm nhằm trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để công chức cấp xã làm tốt công việc được giao chưa thật sự hiệu quả. Hiện tại không có một khung chương trình nào về bồi dưỡng nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ hành chính công, mà việc lựa chọn các nội dung bồi dưỡng còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan và điều kiện sẵn có của các cơ quan có thẩm quyền tổ chức bồi dưỡng. Các nội dung bồi dưỡng cho công chức cấp xã còn manh mún, thiếu tính hệ thống, không tập trung vào việc bồi dưỡng nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ hành chính công ở cấp xã.

4. Đề xuất một số nội dung cần bồi dưỡng cho công chức cấp xã

Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025 nêu rõ mục tiêu: hàng năm, ít nhất 60% cán bộ, công chức cấp xã được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp, đạo đức công vụ.

Từ những điểm mạnh, điểm hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trên, xin đề xuất việc lựa chọn các nội dung cần thiết và quan trọng để bồi dưỡng cho công chức cấp xã.

Một là, bồi dưỡng về đạo đức công vụ.

Hoạt động công vụ của đội ngũ công chức cấp xã luôn  gắn với quyền lực nhà nước; tùy theo vị trí công tác của công chức sẽ được trao một phạm vi quyền lực nhất định. Hoạt động công vụ sẽ có tác dụng tích cực trực tiếp tới đời sống xã hội nếu được thực hiện đúng đắn; ngược lại, sẽ đưa đến những hậu quả xấu nếu người thực hiện hoạt động công vụ lợi dụng để trục lợi. Vì vậy, cần bồi dưỡng để công chức hiểu rõ những đặc trưng và thành tố cơ bản của đạo đức công vụ, tập trung vào các tình huống đạo đức thực tế, hình thành hành vi đạo đức trong môi trường công vụ để từ đó công chức luôn có ý thức tu dưỡng, rèn luyện và nâng cao đạo đức công vụ, hướng đến mục đích cao nhất của nền công vụ là phục vụ nhân dân.

Hai là, bồi dưỡng chuyên sâu về cơ chế một cửa, một cửa liên thông.

Để vận hành tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở cấp xã cần phải bồi dưỡng cho công chức về nghiệp vụ, kỹ năng làm việc theo cơ chế này. Trong đó, cần tập trung bồi dưỡng về cách thức, cơ chế vận hành; thiết lập các điều kiện để liên thông trong việc giải quyết các thủ tục hành chính; kỹ năng sử dụng phần mềm một cửa điện tử, phần mềm một cửa điện tử liên thông; cách nhận, trao đổi, lưu trữ và bảo quản thông tin điện tử trong hệ thống thông tin hành chính nhà nước...

Ba là, bồi dưỡng nội dung về xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 và tiến tới là ISO 9001:2015 tại UBND cấp xã.

Nguyên tắc quan trọng và hàng đầu của việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001 trong cơ quan hành chính nhà nước là hướng vào khách hàng, coi các tổ chức, công dân là khách hàng, là đối tượng để phục vụ. Do đó, cần bồi dưỡng cho công chức cấp xã nắm được những điểm quan trọng về ISO 9001: 2008 và ISO 9001:2015. Đặc biệt là việc rà soát, chuẩn hóa quy trình, thủ tục hành chính về trình tự, thời gian, trách nhiệm thực hiện công việc; làm rõ trách nhiệm từng công đoạn; thiết lập sự phối hợp trong xử lý công việc; cải tiến việc quản lý tài liệu, hồ sơ; xây dựng phong cách, môi trường làm việc khoa học; cách phát hiện sai sót và khắc phục một cách nhanh nhất.

Bốn là, bồi dưỡng nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin.

Để nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ hành chính công của UBND cấp xã thì ứng dụng CNTT là một trong những lựa chọn tối ưu. Ứng dụng CNTT để giảm thời gian, số lần trong một năm người dân, doanh nghiệp phải trực tiếp đến cơ quan nhà nước thực hiện các thủ tục hành chính; làm tăng tốc độ xử lý công việc, giảm chi phí hoạt động và đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau. 

Việc lựa chọn nội dung bồi dưỡng được căn cứ vào chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT ban hành tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11/3/2014 của Bộ Thông tin và truyền thông. Trong đó, cần hướng đến các kỹ năng để có thể sử dụng tốt các phần mềm ứng dụng; tạo lập, trao đổi, lưu trữ, bảo quản các thông tin hành chính theo yêu cầu của Chính phủ điện tử; các kỹ thuật cung ứng dịch vụ công trực tuyến cho nhân dân...

Năm là, bồi dưỡng, cập nhật những vấn đề mới về cải cách hành chính.

 Cần cập nhật và bồi dưỡng cho công chức cấp xã những xu hướng mới của nền hành chính như: mở rộng việc phân cấp của Chính phủ cho chính quyền địa phương; tách dịch vụ hành chính công khỏi quản lý nhà nước, khi đó người dân sẽ là trung tâm của sự phục vụ... Những nội dung bồi dưỡng này có thể làm thay đổi tư duy và thói quen của phần lớn công chức cấp xã, đồng thời tạo động lực để công chức thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và vai trò phục vụ của mình.

Hiện nay ở Trung ương đang tập trung xây dựng mô hình Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân. Vì vậy, cần bồi dưỡng cho công chức hiểu rõ được nội dung cụ thể của mô hình Chính phủ mới, từ đó xác định những việc cần làm, những năng lực cần có để có thể đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn phát triển mới.

Cần bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về Chính phủ điện tử, bởi vì xây dựng Chính phủ điện tử là mục tiêu của Chính phủ, của tất cả các cơ quan hành chính... Nếu không có những kiến thức cơ bản về Chính phủ điện tử, công chức không thể vận hành, liên thông, liên kết để cung ứng dịch vụ công cho nhân dân, đặc biệt là việc cung ứng các dịch vụ hành chính công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4.

Sáu là, bồi dưỡng các kỹ năng hành chính cơ bản.

Cần tập trung bồi dưỡng cho công chức cấp xã những kỹ năng hành chính cơ bản như: kỹ năng nhận biết giấy tờ giả, chữ ký giả trong thẩm định hồ sơ; kỹ năng soạn thảo văn bản hành chính; kỹ năng giao tiếp công vụ; kỹ năng trao đổi qua điện thoại; kỹ năng tiếp xúc với dân;... Việc bồi dưỡng những kỹ năng này cho công chức cấp xã đã được nhiều tỉnh, thành phố quan tâm, tuy nhiên nội dung bồi dưỡng còn nặng về lý thuyết, việc tổ chức các lớp bồi dưỡng chưa hợp lý. Bồi dưỡng các kỹ năng hành chính cần tập trung vào các tình huống cụ thể trong môi trường hoạt động công vụ, giúp cho học viên được thực hành nhiều hơn, tạo cơ chế để mỗi công chức cấp xã tự hoàn thiện và rèn luyện các kỹ năng cơ bản này trong hoạt động công vụ hàng ngày.

ThS. Dương Quốc Chính - Học viên Hành chính Quốc gia

----------------------

 

Ghi chú:

(1) Bộ Nội vụ, Quyết định số 915/QĐ-BNV ngày 20/4/2016 về việc phê duyệt và công bố Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2015, tr.46 - 62.

(2) Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), http://papi.org.vn/wp-content/uploads/2016/04/Standee-posters_for-printing.pdf, tr.8 - 9.

(3) Trần Thị Hạnh, Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, Tạp chí Lý luận chính trị (số 10/2015), tr.84.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Nội vụ, Quyết định số 915/QĐ-BNV ngày 24/4/2016 công bố chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2015 (SIPAS 2015).

2. Các báo cáo tổng hợp về Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh từ năm 2011 - 2015, Papi.org.vn.

3. Học viện Hành chính quốc gia, Cải cách dịch vụ hành chính công ở Việt Nam, Đề tài cấp bộ 2003.

4. Lê Chi Mai, Dịch vụ hành chính công, Nxb Lý luận Chính trị, H.2012.

5. Trần Thị Hạnh, Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị, Tạp chí Cộng sản 2015 (http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-moi/2015/34093/Chat-luong-doi-ngu-can-bo-cong-chuc-cap-xa-tu-sau.aspx)

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện trong điều kiện hiện nay

Ngày đăng 07/06/2024
Quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội trên địa bàn cấp huyện có vai trò rất quan trọng đối với người lao động, người sử dụng lao động và thực hiện an sinh xã hội. Trong thời gian tới, các cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện cần bám sát vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch công tác và nhiệm vụ trọng tâm của ngành Bảo hiểm xã hội để xây dựng hệ thống văn bản quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội trên địa bàn cấp huyện cho phù hợp.

Lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - một hướng dẫn để hiểu về Việt Nam đương đại

Ngày đăng 06/06/2024
Ngày 21/5/2024, tại thành phố Roma, thủ đô nước Cộng hòa Italia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Đại sứ quán Việt Nam tại Italia đã phối hợp tổ chức Tọa đàm khoa học “Hồ Chí Minh: biểu tượng về hòa bình của nhân dân Việt Nam và thế giới”; đồng thời phối hợp với Nhà xuất bản Anteo Edizioni(1) tổ chức Lễ ra mắt bản dịch tiếng Ý cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, do Nhà xuất bản Anteo Edizioni dịch và xuất bản.

Một số vấn đề về nhận thức và thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ngày đăng 28/05/2024
Tập trung dân chủ là nguyên tắc đặc thù của mô hình nhà nước và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa nói chung. Ở Việt Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hành ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (năm 1945), nhưng cho đến nay, nhận thức và thực hành nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đánh giá, bổ sung để phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn và quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.  

Truyền thông chính sách - góc nhìn từ Thành phố Hồ Chí Minh

Ngày đăng 20/05/2024
Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách, báo chí và các phương tiện truyền thông khác được xác định là kênh thông tin và công cụ cơ bản, quan trọng để thực hiện nhiệm vụ truyền thông chính sách. Với sự bùng nổ thông tin ngày nay và từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy công tác truyền thông chính sách cần được quan tâm chú trọng hơn nữa để đóng góp vào việc tạo ra sự đồng thuận và nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong việc thực thi chính sách của các cơ quan hành chính nhà nước. 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là sự thật không thể phủ nhận!

Ngày đăng 17/05/2024
Ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tự do tín ngưỡng, tôn giáo là 1 trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”. Điều này tiếp tục được hiến định trong các bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam.