Hà Nội, Ngày 11/06/2024

Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về công chức cấp xã

Ngày đăng: 29/07/2017   14:45
Mặc định Cỡ chữ

1. Quan niệm hoàn thiện pháp luật về công chức cấp xã

Pháp luật về công chức cấp xã (CCCX)  bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật (QPPL) do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm quy định về nghĩa vụ và quyền của CCCX; tuyển dụng, bố trí, sử dụng; đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá, phân loại; khen thưởng, kỷ luật; chế độ, chính sách đãi ngộ… đối với CCCX. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về CCCX là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thiết lập đội ngũ CCCX và trong quá trình hoạt động công vụ của CCCX.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Pháp luật về CCCX được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hình sự…. Trong đó, Luật cán bộ, công chức là văn bản điều chỉnh chung, trực tiếp và quan trọng nhất liên quan đến hoạt động công vụ của cán bộ, công chức nói chung, trong đó có CCCX. Để thực hiện công vụ trong từng lĩnh vực quản lý của Nhà nước còn có những quy định chuyên biệt, nhưng phải phù hợp với các quy định chung của Luật cán bộ, công chức, ví dụ, các nghị định của Chính phủ điều chỉnh các mặt cụ thể như điều kiện, tiêu chuẩn các chức danh; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá, phân loại, khen thưởng, kỷ luật và chế độ, chính sách đãi ngộ CCCX.

Pháp luật về CCCX là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ CCCX trong sạch, vững mạnh và điều chỉnh các hoạt động thực thi công vụ của CCCX, đồng thời là phương tiện để Nhà nước quản lý và phát triển đội ngũ CCCX.

Để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về CCCX cần phải xem xét ở giác độ cụ thể, nghĩa là phải gắn nó với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước và nhu cầu điều chỉnh pháp luật nhằm đạt mục tiêu mà pháp luật về CCCX hướng đến, cụ thể trên các nội dung sau:

-  Pháp luật về CCCX phải bao gồm đầy đủ các quy định điều chỉnh đối với CCCX. Với yêu cầu này, pháp luật về CCCX phải đạt 2 tiêu chí cơ bản là: 1) Ở cấp độ chung, pháp luật về CCCX phải quy định đầy đủ bởi các ngành luật liên quan theo cơ cấu nội dung, lôgic và thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật tương ứng; 2) Ở cấp độ cụ thể, pháp luật về CCCX đòi hỏi phải có đủ chế định pháp luật và các QPPL.

- Pháp luật về CCCX phải đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ. Tính thống nhất được biểu hiện qua 2 tiêu chí: 1) Về nội dung, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về CCCX là đội ngũ CCCX thì các QPPL phải thống nhất với nhau và không có mâu thuẫn trong cùng một văn bản luật hay của địa phương trái với quy định của trung ương; 2) Về hình thức, kết cấu văn bản luật phải lôgic, cách đánh số, chương, mục đảm bảo khoa học.

Tính đồng bộ được thể hiện qua 2 tiêu chí cụ thể: 1) Ở trục ngang, các văn bản của cùng một cơ quan hoặc các cơ quan ngang cấp ban hành không được mâu thuẫn, chồng chéo; 2) Ở trục dọc, văn bản của cơ quan cấp dưới ban hành không được mâu thuẫn, chồng chéo với văn bản do cấp trên ban hành.

- Pháp luật về CCCX phải đảm bảo tính phù hợp. Tính phù hợp của pháp luật về CCCX được đảm bảo khi các văn bản QPPL về CCCX được ban hành phù hợp với điều kiện cụ thể của tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Pháp luật về CCCX phải đảm bảo tính khả thi trong áp dụng. Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật. Pháp luật về CCCX khi áp dụng pháp luật phải đảm bảo nguyên tắc có căn cứ, lý do xác đáng; áp dụng pháp luật đúng, chính xác, công bằng; đảm bảo tính pháp chế và mục đích đề ra; áp dụng pháp luật về CCCX phải đảm bảo tính hiệu quả.

Việc áp dụng pháp luật về CCCX phải đảm bảo quy trình chặt chẽ, chính xác mà pháp luật đã quy định.

Qua phân tích, có thể quan niệm hoàn thiện pháp luật về CCCX là: Các văn bản QPPL về CCCX đảm bảo đầy đủ, toàn diện các quan hệ phát sinh của CCCX đối với xã hội; khi ban hành phải đảm bảo tính thống nhất, phù hợp, khả thi và đạt được mục tiêu đề ra trong xây dựng và quản lý CCCX nói riêng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung.

2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về công chức cấp xã

          2.1 Tiêu chí về nội dung

          Tiêu chí về nội dung là một tiêu chí quan trọng đối với việc hoàn thiện pháp luật về CCCX. Tiêu chí này được đánh giá là đạt yêu cầu nếu đảm bảo được các yêu tố sau:

          Thứ nhất, có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng về công chức nói chung và CCCX nói riêng.

Thứ hai, phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thể hiện ở những tiêu chí như tính công khai, minh bạch, dân chủ và xã hội hoá...

Thứ ba, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của địa phương ở mỗi thời kỳ và phù hợp với hệ thống pháp luật về công chức nói chung.

Thứ tư, phù hợp với vai trò, vị trí và đặc điểm của đội ngũ CCCX.

          2.2 Tiêu chí về tính toàn diện

Để đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật về CCCX, trước hết phải xem xét tính toàn diện của hệ thống pháp luật đó, nghĩa là tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hoạt động của CCCX đều phải được quy định trong các văn bản QPPL. Nếu thiếu một trong các nội dung liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn; tiêu chuẩn, chức danh; đào tạo, bồi dưỡng; sử dụng, quản lý; chế độ, chính sách, khen thưởng, kỷ luật,... nghĩa là pháp luật về CCCX còn lỗ hổng, chưa toàn diện, chưa bao quát hết các vấn đề, thì khi đó hệ thống pháp luật về CCCX chưa được coi là hoàn chỉnh và hoàn thiện.

Pháp luật về CCCX phải xác định rõ đối tượng và phạm vi điều chỉnh, vì vậy, đòi hỏi mọi vấn đề có liên quan đến CCCX phải được quy định đầy đủ, rõ ràng, rành mạch trong một hệ thống văn bản QPPL thống nhất.

Tính toàn diện của pháp luật về CCCX thể hiện ở việc ban hành đầy đủ các văn bản, quy định pháp luật, trong những trường hợp cần thiết phải có sự quy định chi tiết, cụ thể để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì có đủ các điều kiện tổ chức thực hiện ngay trong thực tế.  

Tính toàn diện của hệ thống văn bản QPPL về CCCX còn thể hiện trong việc ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản QPPL. Hiện nay, mặc dù Luật cán bộ, công chức đã được thực hiện từ năm 2010 nhưng còn thiếu các quy định về công vụ, thanh tra công vụ, quy chế hoạt động công vụ, đạo đức công vụ... Có thể coi đây là một khiếm khuyết trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về CCCX, chưa đáp ứng được tiêu chí về tính toàn diện,  hoạt động của CCCX chưa được bảo đảm về mặt pháp lý, gây ra những khó khăn cho việc xác lập kỷ cương, trật tự trong cơ quan, tổ chức và nhất là trong hoạt động công vụ, giải quyết công việc của CCCX.

2.3 Tiêu chí về tính đồng bộ

Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về CCCX thể hiện ở sự thống nhất giữa hai cấp độ: cấp độ chung và cấp độ cụ thể.

Ở cấp độ chung, là sự đồng bộ giữa các quy định pháp luật về công chức nói chung và CCCX nói riêng với các QPPL thuộc các ngành luật khác như Luật Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hình sự… tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật về CCCX.

Ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về CCCX đòi hỏi phải xem xét đánh giá tính thống nhất, không có mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản QPPL về cùng một đối tượng điều chỉnh.

Đây là tiêu chí thể hiện trình độ lập pháp của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban hành pháp luật của bất kỳ một quốc gia nào.

Tính đồng bộ thể hiện thông qua việc quy định thống nhất trong các văn bản QPPL về đối tượng điều chỉnh có liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau, có tính đan xen với nhau, trong đó có pháp luật về công chức nói chung và CCCX nói riêng. Nếu không bảo đảm được tính đồng bộ trong các văn bản QPPL về CCCX sẽ dẫn tới hiện tượng xung đột pháp luật, làm giảm hoặc triệt tiêu hiệu lực pháp lý của các văn bản QPPL. Bảo đảm tính đồng bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của Nhà nước và cả hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đặc điểm của hệ thống chính trị và nền công vụ nước ta là đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, tiêu chí về tính đồng bộ của pháp luật CCCX đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước về sử dụng, quản lý CCCX và các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội phải có sự thống nhất cao khi định ra các chính sách đối với CCCX để tránh hiện tượng có sự chênh lệch, vênh nhau trong việc thực thi chính sách, chế độ đối với CCCX.

Tính đồng bộ còn thể hiện ở sự hài hoà nhưng rõ ràng, rành mạch giữa các quy định. Thực tế hệ thống pháp luật về CCCX hiện nay chưa quy định cụ thể, đồng bộ về nghĩa vụ và tiêu chuẩn đạo đức của CCCX trong hoạt động công vụ mà các quy định này nằm trong các văn bản QPPL khác nhau. Như vậy, khi tiêu chí về tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về CCCX không được đảm bảo sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cũng như hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước và chất lượng đội ngũ CCCX.

2.4 Tiêu chí về tính khả thi

Pháp luật về CCCX bảo đảm tính khả thi, nghĩa là các văn bản QPPL về CCCX phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đáp ứng được các yêu cầu khách quan của thực tiễn.

Pháp luật về CCCX khi ban hành phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi pháp luật về CCCX phải phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật. Trong những trường hợp đó hoặc là pháp luật không có khả năng thực hiện được hoặc là được thực hiện không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò, tác dụng trong đời sống xã hội.

Tính khả thi của pháp luật về CCCX thể hiện ở việc các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng những nhu cầu cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành pháp luật phải xem xét các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời phải tính đến các điều kiện như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ CCCX có thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó (ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân... Pháp luật có chất lượng phải là pháp luật đưa ra được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh phù hợp nhất, thông qua đó đạt được mục đích mong muốn trong những điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại của đất nước nói chung và của địa phương nói riêng.

Vì vậy, tiêu chí về tính khả thi của pháp luật về CCCX đòi hỏi pháp luật phải được xây dựng, ban hành căn cứ vào thực tiễn khách quan của cuộc sống, phải đặt trong mối liên hệ giữa sự phát triển của kinh tế - xã hội với xây dựng pháp luật. Do đó, quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL về CCCX phải nghiên cứu kỹ thực tiễn xã hội; các quá trình kinh tế, chính trị của đất nước; phải xuất phát từ thực trạng và những đòi hỏi khách quan của việc xây dựng đội ngũ CBCC; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm lịch sử, tư tưởng, văn hoá, truyền thống dân tộc và chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị; xuất phát từ thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước.

2.5 Tiêu chí về kỹ thuật pháp lý

Tiêu chí về kỹ thuật pháp lý là tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật về CCCX nhằm đảm bảo cho pháp luật có đầy đủ các khả năng để điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội. Điều này đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về CCCX phải đề ra những nguyên tắc, trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình đó nhằm tạo ra những quy định, văn bản pháp luật tốt nhất, đồng thời phù hợp với các quy định đã có; xác định chính xác, khoa học cơ cấu của hệ thống pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên môn, cần xác định rõ nội dung được giải thích trong văn bản. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại”(1). Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các QPPL còn tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Để có chất lượng, các văn bản pháp luật về CCCX phải được xây dựng đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.

2.6 Tiêu chí về tổ chức thực hiện

Pháp luật về CCCX được đánh giá là hoàn thiện nếu đáp ứng tiêu chí về tổ chức thực hiện, thể hiện qua các nội dung sau:

- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về CCCX.

Pháp luật về CCCX không chỉ thể hiện ở việc được ban hành dưới hình thức văn bản QPPL, mà quan trọng hơn là văn bản QPPL đó phải đi vào cuộc sống. Do vậy phải tuyên truyền cho nhân dân nắm được một cách đầy đủ và hiểu được nội dung của các văn bản pháp luật về công chức nói chung và CCCX nói riêng. Muốn vậy, phải coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật và sử dụng nhiều hình thức, biện pháp để giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.

- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CCCX.

Hoàn thiện pháp luật về CCCX được thể hiện thông qua hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật của đội ngũ CCCX, do vậy phải nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ CCCX. Muốn vậy, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ CCCX, thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ CCCX, trong đó xác định rõ cả về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, tác phong, đạo đức, lối sống; tiến tới đánh giá CCCX theo từng chức danh cụ thể.

- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về CCCX.

Pháp luật về CCCX được coi là hoàn thiện còn được thể hiện thông qua hiệu quả việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện pháp luật về CCCX và xử lý các hành vi vi phạm phạm pháp luật về CCCX; phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ quan làm công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về CCCX.

Đội ngũ công chức nói chung và CCCX nói riêng được Nhà nước trao quyền lực thực thi công vụ, vì vậy kiểm tra việc thực hiện pháp luật để phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của đội ngũ CCCX một cách kịp thời là hết sức cần thiết. Điều này vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật vừa kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật về CCCX.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế, để xây dựng và phát triển đội ngũ CCCX, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện pháp luật về CCCX. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về CCCX là việc làm hết sức cần thiết./.

Ghi chú:

(1) Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr. 263.

ThS. Trần Thị Hạnh - Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện trong điều kiện hiện nay

Ngày đăng 07/06/2024
Quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội trên địa bàn cấp huyện có vai trò rất quan trọng đối với người lao động, người sử dụng lao động và thực hiện an sinh xã hội. Trong thời gian tới, các cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện cần bám sát vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch công tác và nhiệm vụ trọng tâm của ngành Bảo hiểm xã hội để xây dựng hệ thống văn bản quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội trên địa bàn cấp huyện cho phù hợp.

Lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - một hướng dẫn để hiểu về Việt Nam đương đại

Ngày đăng 06/06/2024
Ngày 21/5/2024, tại thành phố Roma, thủ đô nước Cộng hòa Italia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Đại sứ quán Việt Nam tại Italia đã phối hợp tổ chức Tọa đàm khoa học “Hồ Chí Minh: biểu tượng về hòa bình của nhân dân Việt Nam và thế giới”; đồng thời phối hợp với Nhà xuất bản Anteo Edizioni(1) tổ chức Lễ ra mắt bản dịch tiếng Ý cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, do Nhà xuất bản Anteo Edizioni dịch và xuất bản.

Một số vấn đề về nhận thức và thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ngày đăng 28/05/2024
Tập trung dân chủ là nguyên tắc đặc thù của mô hình nhà nước và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa nói chung. Ở Việt Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hành ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (năm 1945), nhưng cho đến nay, nhận thức và thực hành nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đánh giá, bổ sung để phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn và quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.  

Truyền thông chính sách - góc nhìn từ Thành phố Hồ Chí Minh

Ngày đăng 20/05/2024
Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách, báo chí và các phương tiện truyền thông khác được xác định là kênh thông tin và công cụ cơ bản, quan trọng để thực hiện nhiệm vụ truyền thông chính sách. Với sự bùng nổ thông tin ngày nay và từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy công tác truyền thông chính sách cần được quan tâm chú trọng hơn nữa để đóng góp vào việc tạo ra sự đồng thuận và nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong việc thực thi chính sách của các cơ quan hành chính nhà nước. 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là sự thật không thể phủ nhận!

Ngày đăng 17/05/2024
Ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tự do tín ngưỡng, tôn giáo là 1 trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”. Điều này tiếp tục được hiến định trong các bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam.