Hà Nội, Ngày 10/06/2024

Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 23/07/2017   14:30
Mặc định Cỡ chữ

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm chăm lo đến vấn đề cán bộ. Người thường xuyên nhắc nhở các cấp, các ngành phải chú ý coi trọng công tác huấn luyện, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, trong đó có cán bộ nữ. Người nêu lên những tư tưởng hết sức quan trọng về công tác cán bộ, đặc biệt là việc huấn luyện, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Người chỉ rõ: “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(1) và coi việc “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, “vấn đề cán bộ là vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”(2). Trong đó, việc bồi dưỡng xây dựng, sử dụng cán bộ nữ, giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam, nữ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, tạo mọi điều kiện để phát huy vai trò phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(3).

Đại biểu phụ nữ các dân tộc Tây Bắc được gặp Bác Hồ (1959)

Những lời căn dặn đó thể hiện quan điểm nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người:

Một là, khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, từ đó thấy được tầm quan trọng của công tác cán bộ nữ.

Thực tế đã chứng minh, với truyền thống yêu nước nồng nàn, anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang, phụ nữ Việt Nam luôn có vai trò to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng. Trong những thử thách gay go nhất của cách mạng, ở đâu, bất cứ lúc nào phụ nữ cũng luôn thể hiện vai trò, trách nhiệm và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc.

Truyền thống Bà Trưng, Bà Triệu, của những nữ anh hùng, những Bà mẹ Việt Nam anh hùng… luôn là niềm tự hào, khắc họa chân dung “anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang” - vẻ đẹp thuần khiết và rạng rỡ của phụ nữ Việt Nam. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, qua hai cuộc trường chinh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, phụ nữ đã đóng góp sức mình cho sự nghiệp cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò và khả năng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Dưới chế độ phong kiến, thực dân, phụ nữ là lớp người bị áp bức bóc lột nhiều nhất, chịu nhiều nỗi bất công, đau khổ nhất. Thông cảm và bênh vực cho quyền lợi của phụ nữ, Người xác định giải phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng cho phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”(5). Đây là tư tưởng vừa thể hiện sự kế thừa, vừa phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc và sử dụng cán bộ nữ, tạo mọi điều kiện để phụ nữ tham gia vào mọi hoạt động của xã hội, kể cả công tác lãnh đạo, quản lý.

Muốn có phong trào phụ nữ thì phải có cán bộ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và nhắc nhở phải đặc biệt chú ý cất nhắc cán bộ nữ vào các vị trí lãnh đạo. Cán bộ nữ là mối dây nối liền giữa Đảng với quần chúng phụ nữ, là những người tiên phong của phong trào phụ nữ. Người tin tưởng khả năng to lớn của người phụ nữ và nhận thấy cán bộ nữ có nhiều ưu điểm như: ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh. Những ưu điểm đó xuất phát từ đặc điểm tâm lý, đức tính tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu đáo, tiết kiệm trong chi tiêu, gần gũi với quần chúng... Bố trí cán bộ nữ vào đúng những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng, chị em phụ nữ sẽ có điều kiện để phát huy năng lực của mình.

Quan tâm và có chính sách phát triển cán bộ nữ là thể hiện sự tiến bộ của nhà nước pháp quyền, góp phần huy động sức mạnh to lớn của lực lượng phụ nữ vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Trong các bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các cấp, các ngành phải nhận thức rõ vai trò to lớn của cán bộ nữ, phải chú trọng đào tạo, sử dụng, cất nhắc cán bộ nữ. Người nói: “Cần chú ý kết nạp thêm đảng viên các dân tộc và nữ đảng viên để mở rộng hàng ngũ Đảng… đặc biệt phải chú ý cất nhắc cán bộ phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động thích hợp với phụ nữ”(6). Muốn như vậy, công tác cán bộ của Đảng phải có kế hoạch, đưa chương trình đào tạo cán bộ nữ vào quy hoạch đào tạo ở các cơ sở đảng và tổ chức quần chúng với những chương trình, biện pháp cụ thể để từ đó có thể cất nhắc, bố trí, sử dụng một cách thiết thực và hiệu quả, đồng thời phải chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng hẹp hòi, trọng nam khinh nữ.

Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc huấn luyện nâng cao trình độ cho cán bộ nữ trở thành những người có đủ trình độ và năng lực để đảm nhận những trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao.

Tuy nhiên, trong cất nhắc, đề bạt sử dụng cán bộ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở các cấp, các ngành phải căn cứ vào trình độ, năng lực và sở trường của từng người mà bố trí sử dụng cho hiệu quả. Người phê phán căn bệnh hình thức trong bổ nhiệm cán bộ nữ, chú ý về cơ cấu mà chưa có sự chuẩn bị và đào tạo, bồi dưỡng để phát huy thực sự trí tuệ và năng lực của phụ nữ. Vì vậy, nhiều cán bộ nữ sau khi bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo bị lúng túng trong công việc, dẫn tới tổn hại uy tín không chỉ riêng cho người cất nhắc bổ nhiệm mà còn chung cho cả nữ giới.

Ba là, động viên phụ nữ cố gắng vươn lên đáp ứng yêu cầu chung của cách mạng, góp phần thực hiện quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngay từ lúc mới thành lập, Đảng ta nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng. Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi công việc Đảng và Chính phủ ta luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Nhưng phong trào phụ nữ chưa cao? Vì sao? Có lẽ vì trình độ tư tưởng văn hóa và kỹ thuật của phụ nữ nói chung còn thấp, phụ nữ còn nhiều tâm lý ỷ lại, thiếu quyết tâm tự lực cánh sinh vươn lên hàng đầu”(7). Hiểu, thông cảm, động viên và khuyến khích kịp thời để cán bộ nữ phát huy ưu điểm, đồng thời cũng chỉ ra những thiếu sót để cán bộ nữ khắc phục, Người nhắc nhở phụ nữ phải vươn lên để bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Muốn vậy, phụ nữ phải cố gắng học tập, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không nên tự ti. Người chỉ rõ: Công bằng cho phụ nữ là sự phân công một cách hợp lý công việc đến từng người, tùy theo khả năng, hoàn cảnh cá nhân và sức khoẻ; khi giao công tác cho phụ nữ, các cấp ủy đảng, các ngành phải căn cứ vào trình độ của từng người và hết sức giúp đỡ họ. Người cho rằng, việc chị em phụ nữ tham gia vào các cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành là một cố gắng vượt bậc, nhiệm vụ của Đảng phải quan tâm giúp đỡ họ thường xuyên, không phải đề bạt cán bộ nữ vào cơ quan lãnh đạo cốt để đạt cơ cấu có nam, có nữ.

Nói chuyện tại Hội nghị phụ nữ lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua toàn thành phố Hà Nội lần thứ hai ngày 8/3/1960, Người nhắc nhở: “Từ trước đến nay phụ nữ Việt Nam ta đã có nhiều đóng góp cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính, phụ nữ ta có rất nhiều tiến bộ. Nhưng Đảng, Chính phủ và Bác Hồ còn mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa. Hiện nay trong các ngành số phụ nữ tham gia còn ít. Đảng và Chính phủ rất hoan nghênh, sẵn sàng cất nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng. Muốn vậy bản thân người phụ nữ phải:

- Gắn học tập chính trị, học tập văn hóa, kỹ thuật.

- Nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa.

- Hăng hái thực hiện “cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình”.

- Đoàn kết chặt chẽ, ra sức tham gia sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà và giữ gìn hòa bình thế giới”(8).

 Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nữ đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa trong các chủ trương, chính sách của các cấp, các ngành, đoàn thể, đã và đang biến thành hiện thực sinh động trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Hơn 40 năm qua, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về công tác cán bộ nữ như: Chỉ thị số 44/CT-TW ngày 07/6/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 12/7/1993 về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 37/CT-TW ngày 16/4/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; các nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI đều đề cập đến công tác cán bộ, trong đó có cán bộ nữ…

Những năm qua, tỷ lệ cán bộ nữ được đưa vào quy hoạch cấp ủy và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp tăng. Số cán bộ nữ được đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ngày càng nhiều, trình độ năng lực được nâng lên rõ rệt, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác. Trong đó, nữ trí thức trẻ có trình độ thạc sĩ chiếm gần 30,5%, tiến sĩ 17,1%; tỷ lệ nữ giáo sư chiếm 5,1%, phó giáo sư 11,7%. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2011-2012, trong số 59.634 giảng viên đại học có 28.027 nữ (47%); trong 24.437 giảng viên cao đẳng có 13.122 nữ (53,7%). Tỷ lệ nữ giảng viên, các chức danh khoa học tăng tương đối đều. Phụ nữ tham gia ngày càng chủ động, tích cực vào các hoạt động khoa học - công nghệ; nhiều công trình nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất và hoạt động thực tiễn đem lại lợi ích kinh tế - xã hội.

Phụ nữ tham gia cấp ủy các cấp: ở Trung ương tỷ lệ nữ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI có 15 đồng chí, chiếm 8,6% (tăng 4,4% so với khóa X); Ủy viên dự khuyết có 03 đồng chí, chiếm 12%; 02 đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị chiếm 14,2% (khoá X không có, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước tới nay); 01 đồng chí nữ Bí thư Trung ương Đảng (10%); có 2/4 Phó chủ tịch Quốc hội là nữ (50%); phụ nữ là chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội chiếm 22,2%. Tất cả các ủy ban của Quốc hội đều có thành viên nữ…

 Phụ nữ tham gia quản lý nhà nước các cấp: Phó Chủ tịch nước 01 đồng chí; nữ thứ trưởng 13 đồng chí; tỷ lệ nữ vụ trưởng của cơ quan bộ và ngang bộ là 9,9%, nữ phó vụ trưởng là 20,7%(9).

Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong các ngành, lĩnh vực chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng. Một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa thật sự chú ý đến việc quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ nữ; công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ nữ chưa được quan tâm đúng mức, chưa có tính chiến lược lâu dài và thiếu tính đột phá. Việc bố trí có những lúc, những nơi còn mang tính hình thức, chú ý về cơ cấu mà thiếu quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để họ có đủ phẩm chất, năng lực đảm nhận những trọng trách được giao. Định kiến về giới vẫn còn tồn tại ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, trong gia đình và xã hội. Nhiều cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành nhận thức chưa đầy đủ quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ. Còn biểu hiện hẹp hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của cán bộ nữ, ngại tuyển dụng nữ. Đáng chú ý, một bộ phận cán bộ nữ còn biểu hiện tự ti, chưa có ý chí phấn đấu vươn lên, cá biệt còn hiện tượng phụ nữ níu kéo nhau, không muốn người khác hơn mình. Mặt khác, với thiên chức làm mẹ, làm vợ, một số chị em chưa được sự chia sẻ, cảm thông, động viên của nam giới cũng như sự ủng hộ của gia đình và người chồng khi tham gia công tác. Nhiều phụ nữ an phận, bằng lòng, không phấn đấu vươn lên, chưa sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới khi được tổ chức quan tâm… Những hiện tượng trên tuy không phổ biến nhưng có ảnh hưởng tiêu cực đến công tác cán bộ nữ, là trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ, đi ngược lại lời dạy của Bác Hồ.

Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của các tầng lớp phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là yêu cầu, đòi hỏi lớn. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”(10).

Để xây dựng đội ngũ cán bộ nữ vững mạnh về số lượng và chất lượng, phát huy được vai trò, vị thế của mình, đồng thời khắc phục những tồn tại trong công tác cán bộ nữ, trong thời gian tới các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như thực hiện đầy đủ các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ để đội ngũ cán bộ nữ Việt Nam ngày càng lớn mạnh, phát huy sức mạnh sáng tạo, tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

TS. Nguyễn Văn Thạo – ThS. Nguyễn Đình Sơn,  Trường sĩ quan Lục quân 2

-------------------------------------------------

Ghi chú:

(1),(2) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, tr.240; tr.274.

(3), (6) Sđd, tập 12, tr.504; tr.21.

(4), (8) Sđd, tập 6, tr.432; tr.89.

(5) Sđd, tập 9, tr.523.

(7) Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, H.1982, tr.58.

(9) Nguồn:  Nguyễn Ngọc Lâm (Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương), Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ nữ, Tạp chí xây dựng Đảng số 10/2013.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.243.

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện trong điều kiện hiện nay

Ngày đăng 07/06/2024
Quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội trên địa bàn cấp huyện có vai trò rất quan trọng đối với người lao động, người sử dụng lao động và thực hiện an sinh xã hội. Trong thời gian tới, các cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện cần bám sát vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch công tác và nhiệm vụ trọng tâm của ngành Bảo hiểm xã hội để xây dựng hệ thống văn bản quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội trên địa bàn cấp huyện cho phù hợp.

Lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - một hướng dẫn để hiểu về Việt Nam đương đại

Ngày đăng 06/06/2024
Ngày 21/5/2024, tại thành phố Roma, thủ đô nước Cộng hòa Italia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Đại sứ quán Việt Nam tại Italia đã phối hợp tổ chức Tọa đàm khoa học “Hồ Chí Minh: biểu tượng về hòa bình của nhân dân Việt Nam và thế giới”; đồng thời phối hợp với Nhà xuất bản Anteo Edizioni(1) tổ chức Lễ ra mắt bản dịch tiếng Ý cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, do Nhà xuất bản Anteo Edizioni dịch và xuất bản.

Một số vấn đề về nhận thức và thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ngày đăng 28/05/2024
Tập trung dân chủ là nguyên tắc đặc thù của mô hình nhà nước và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa nói chung. Ở Việt Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hành ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (năm 1945), nhưng cho đến nay, nhận thức và thực hành nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đánh giá, bổ sung để phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn và quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.  

Truyền thông chính sách - góc nhìn từ Thành phố Hồ Chí Minh

Ngày đăng 20/05/2024
Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách, báo chí và các phương tiện truyền thông khác được xác định là kênh thông tin và công cụ cơ bản, quan trọng để thực hiện nhiệm vụ truyền thông chính sách. Với sự bùng nổ thông tin ngày nay và từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy công tác truyền thông chính sách cần được quan tâm chú trọng hơn nữa để đóng góp vào việc tạo ra sự đồng thuận và nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong việc thực thi chính sách của các cơ quan hành chính nhà nước. 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là sự thật không thể phủ nhận!

Ngày đăng 17/05/2024
Ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tự do tín ngưỡng, tôn giáo là 1 trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”. Điều này tiếp tục được hiến định trong các bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam.