Hà Nội, Ngày 02/05/2024

Xây dựng nhân lực hành chính nhà nước - yếu tố quan trọng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước ở Việt Nam

Ngày đăng: 06/01/2021   14:51
Mặc định Cỡ chữ
Phát triển bền vững kinh tế - xã hội là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội của bất cứ quốc gia nào. Để phát triển bền vững đất nước, cần nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực hành chính nhà nước nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.

1. Những biểu hiện của sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội

Một xã hội được coi là phát triển bền vững khi có được các yếu tố cơ bản sau đây:

Một là, đạt được các chỉ số kinh tế - xã hội đã đề ra.

Cụ thể, thước đo quan trọng nhất là tiêu chí về tổng sản phẩm nội địa (GDP) và GDP bình quân theo đầu người theo tiêu chuẩn quốc tế; ngoài ra còn có các chỉ số về bảo đảm y tế, giáo dục, việc làm, thu nhập, khoảng cách giàu nghèo...

Hai là, có được nền tảng của các kết quả phát triển kinh tế - xã hội.

- Nền kinh tế quốc dân có hình thức sở hữu tối ưu, điển hình là kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, trong đó kinh tế nhà nước được xây dựng ở mức cần và đủ, kinh tế tư nhân được tạo thuận lợi để phát triển tối đa.

Năm 1986, một trong những mục tiêu Đảng và Nhà nước ta đề ra khi tiến hành công cuộc đổi mới là “xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, từ Đổi mới (năm 1986) đến nay đã có những đánh giá khách quan về vai trò quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân, do đó nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp được chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nền kinh tế quốc dân được trang bị bằng khoa học và công nghệ tiên tiến nhất. Mỗi ngành sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế quốc dân có nội dung riêng, tuy nhiên những gì thuộc về điện khí hóa, cơ khí hóa, tự động hóa, hóa học hóa,… đặc biệt là sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có bản chất là sự kết nối hệ thống tri thức của loài người về mọi lĩnh vực.

- Nền kinh tế quốc dân được tổ chức tốt: về cơ cấu ngành có các chuyên ngành kinh tế mũi nhọn làm ra được những sản phẩm có giá trị sử dụng cao, nhờ đó giúp cho quốc gia có thế mạnh trong quan hệ  kinh tế quốc tế, đủ sức giữ thế chủ động cho quốc gia trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu…

- Nền kinh tế quốc dân có được nguồn đầu vào ổn định như: có nền công nghiệp chế tạo các phương tiện khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nguyên liệu trong nước và nguồn nhân lực chất lượng cao bền vững.

- Nền kinh tế quốc dân có được đầu ra bền vững, như: có một xã hội tiêu dùng có văn hóa, văn minh. Nghĩa là không phải là một xã hội tiêu dùng mà không xuất phát từ những nhu cầu tiến hóa văn minh, hoàn thiện của con người; có các khách hàng quốc tế ổn định, có pháp lý rõ ràng trong giao dịch thương mại.

- Nền kinh tế quốc dân có đội ngũ doanh nhân có trí tuệ và văn hóa cao trong mọi ứng xử, thể hiện trong việc tuân thủ pháp luật liên quan đến sản xuất kinh doanh; ứng xử tốt hơn cả chuẩn mực pháp luật về các yêu cầu có tính nhân văn trong quan hệ với xã hội khi làm kinh tế, điển hình là các ứng xử trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường, trong quan hệ với người tiêu dùng, quan hệ với đối tác và với người làm thuê...

Ba là, thành quả kinh tế - xã hội và xây dựng nền kinh tế quốc dân phải có nền tảng là sự quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội với những ưu điểm cơ bản sau:

- Đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng quy luật khách quan, có sự nhất quán trong dài hạn và được đa số nhân dân thừa nhận, tuân theo chứ không phải là sự áp đặt chủ quan của bất kỳ lực lượng nào;

- Điều hành nền kinh tế - xã hội của đội ngũ công chức hành chính nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt, đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao.

Sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua được coi là phát triển bền vững bởi sự gia tăng ổn định của các giá trị kinh tế - xã hội, được đo bằng các chỉ tiêu cụ thể, trong đó có chỉ tiêu tốc độ tăng GDP/ người. Sự tăng trưởng cao mang tính bền vững xuất phát từ những nhân tố cơ bản, phù hợp các quy luật khách quan, trong đó có hai yếu tố chính:

Thứ nhất, sự tăng trưởng cao của nền kinh tế quốc dân và các bảo đảm về phúc lợi xã hội chỉ có được một cách ổn định, lâu dài khi được công nghiệp hoá, hiện đại hóa và có sự hội nhập quốc tế với các nước phát triển. Thiếu nền móng này thì những kết quả tốt đẹp về kinh tế - xã hội sẽ không thể bền vững;

Thứ hai, nền tảng chỉ thực sự bền vững khi nó được tạo ra bởi một nhà nước tôn trọng quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

2. Ý nghĩa, vai trò của nhân lực hành chính nhà nước đối với sự phát triển bền vững đất nước

Một là, sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân là nền tảng quyết định chất lượng của toàn xã hội, quyết định sự vững bền của một quốc gia và nền kinh tế quốc dân không thể phát triển một cách bền vững nếu thiếu sự quản lý của Nhà nước. Trong quản lý nhà nước về kinh tế, công chức hành chính nhà nước có tác động thường xuyên, toàn diện và trực tiếp đến quyền và lợi ích của từng người dân trong nền kinh tế - xã hội của đất nước; phải xử lý nhiều công việc cụ thể dựa vào các quy định, tài năng và kinh nghiệm phong phú của mình; phải đối mặt với nhiều cám dỗ, mãnh lực tiêu cực phát sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, một đội ngũ nhân lực hành chính đủ phẩm chất, năng lực và uy tín là nhân tố cốt lõi để Nhà nước thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, chỉ có đội ngũ nhân lực hành chính nhà nước đủ đức, đủ tài mới có thể quản lý nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng phát triển bền vững, bởi đây là đội ngũ đại diện ý chí và lợi ích toàn dân nên có quyền ngăn cấm mọi hành vi trái quy định pháp luật; dẫn dắt đội ngũ doanh nhân đi đúng đường hướng trong xử lý mọi vấn đề có liên quan đến sự phát triển bền vững. Điển hình như việc thiết lập quan hệ kinh tế quốc tế đúng đắn, việc phát triển và nâng cao dân trí, phát triển khoa học và công nghệ, phân bố tối ưu toàn lực kinh tế trên lãnh thổ quốc gia, bảo vệ công dân - doanh nhân trên thị trường quốc tế...

Ba là, đội ngũ nhân lực hành chính giữ vai trò quan trọng trong kiểm tra, thanh tra đối với các vấn đề liên quan đến chi tiêu ngân sách đúng quy định, phù hợp và liêm khiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

3. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước  

Để có đội ngũ nhân lực hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước với các nội dung trọng tâm sau:

Một là, mọi quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đều phải xuất phát từ sự hiểu đúng về sự cần thiết của công tác quản lý nhà nước và chức năng của quản lý nhà nước. Trên cơ sở đó xác định đúng đối tượng, phạm vi hoạt động kinh tế - xã hội mà nhà nước cần và được quyền quản lý.

Hai là, đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức nhằm xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Đây cũng là nội dung lớn trong chủ trương cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những nội dung cốt lõi của việc cải cách chế độ công vụ, công chức là tiến hành xác định vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính nhà nước. Cụ thể là phải giao công việc, nhiệm vụ, trách nhiệm một cách rõ ràng cho từng bộ phận trong bộ máy hành chính nhà nước.

Đặc biệt, trong mỗi cơ quan hành chính nhà nước phải thiết kế đúng về tên gọi, nội dung công vụ và chuẩn chất lượng của kết quả với từng hoạt động công vụ và hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp; tiêu chuẩn chức danh công chức cho từng nhóm công việc; yêu cầu kiến thức chuyên môn cho từng chức danh đó.

Ba là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát công vụ đối với các cơ quan hành chính nhà nước và với từng chức danh công chức trong cơ quan hành chính nhà nước; trong đó chú trọng tăng quyền hạn và trách nhiệm của các đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Quốc hội đối với kết quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và công chức hành chính nhà nước đảm nhận; đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thực hiện quyền giám sát. Điều 69 của Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Tuy nhiên, cần cụ thể hóa thành luật theo hướng phải có những chế định rõ hơn về quyền giám sát bộ máy hành chính nhà nước của công dân và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị.

Mặt khác, cần có quy định cụ thể, thiết thực để nhân dân có thể giám sát công tác quản lý nhà nước của cả bộ máy hành chính nhà nước và của cá nhân công chức hành chính nhà nước. Ngoài việc tiếp xúc cử tri của các đại biểu dân cử, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm đảm bảo cho “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, các cấp, ban, ngành cần tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ nhân lực hành chính nhà nước theo đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII “Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng”. Đặc biệt, cần quy định rõ nhiệm vụ và hình thức kỷ luật thích đáng khi cán bộ, công chức vi phạm pháp luật cũng như các quy định trong nền hành chính, như vậy họ sẽ cố gắng trau dồi, rèn luyện đạo đức, học tập một cách nghiêm túc góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước./.

 

GS.TS Lê Sỹ Thiệp - Học viện Hành chính Quốc gia

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.