Hà Nội, Ngày 26/04/2024

Mối quan hệ giữa cải cách hành chính nhà nước và năng lực cạnh tranh quốc gia

Ngày đăng: 25/03/2021   15:51
Mặc định Cỡ chữ
Kết quả cải cách hành chính nhà nước là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để kiến tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, phục vụ người dân, doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Quan hệ giữa cải cách hành chính nhà nước và năng lực cạnh tranh quốc gia là mối quan hệ nhân quả gắn kết chặt chẽ, tác động và bổ sung cho nhau, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

1. Lý luận về cải cách hành chính nhà nước

1.1. Nền hành chính nhà nước và cải cách hành chính nhà nước

Nền hành chính nhà nước là một hệ thống tổ chức và các định chế có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước, được tạo thành bởi các pháp nhân công quyền (Chính phủ, các bộ và UBND các cấp…) có thẩm quyền tổ chức và điều hành quá trình hoạt động của xã hội và hành vi của các tổ chức, công dân trên cơ sở quy định pháp luật nhằm mục đích giữ gìn trật tự công, phục vụ lợi ích công và lợi ích của nhân dân một cách hiệu quả. Đặc điểm của hành chính nhà nước là tính lệ thuộc vào chính trị; tính pháp quyền; tính liên tục, ổn định và thích ứng; tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao; tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ; tính không vụ lợi; tính nhân đạo (dân chủ và phục vụ).

Cải cách hành chính (CCHC) nhà nước là quá trình đổi mới nhận thức đầy đủ về đặc điểm, vai trò của nền hành chính để xác định và triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

1.2. Yêu cầu khách quan của cải cách hành chính nhà nước

Thứ nhất, do vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nền hành chính trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đó là việc tổ chức đưa đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, đồng thời góp phần bổ sung, phát triển chính sách, pháp luật. Nền hành chính nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước giữ vị trí trọng tâm, có chức năng thực thi quyền hành pháp, quyền quản lý toàn diện tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của đất nước. Với chức năng tạo môi trường chính trị, môi trường pháp lý, can thiệp vào nền kinh tế bằng các công cụ quản lý nhà nước, nền hành chính tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của một quốc gia; giữ gìn trật tự, kỷ cương, tạo môi trường an sinh, trật tự an toàn xã hội.

Các cơ quan, CBCC trong hệ thống hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ người dân, trực tiếp xử lý công việc hàng ngày của Nhà nước, thường xuyên giải quyết các yêu cầu của người dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Nhân dân đánh giá Đảng, đánh giá chế độ trước hết thông qua hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

Thứ hai, do các hạn chế, bất cập của bộ máy và đội ngũ công chức hành chính. Nền hành chính trước đây mang nặng dấu ấn của thời kỳ quan liêu, bao cấp, cửa quyền, xa dân. Bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền chồng chéo, cơ chế vận hành hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, trật tự, kỷ cương trong nền hành chính không được bảo đảm, nạn tham nhũng, lãng phí chưa được khắc phục; đội ngũ CBCC có trình độ, năng lực chuyên môn, kỹ năng tác nghiệp hành chính, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới của đất nước.

Thứ ba, do vai trò và tính tất yếu khách quan của cải cách hành chính. Vấn đề đổi mới, cải cách nền hành chính, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển là yêu cầu tất yếu khách quan. Cải cách hành chính có vai trò quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xác định mối quan hệ đúng đắn giữa cơ quan hành chính nhà nước và CBCC với người dân; giữ gìn trật tự kỷ cương, đảm bảo an sinh, an toàn và công bằng, dân chủ trong xã hội.

CCHC là yêu cầu, là nhiệm vụ tự thân của nền hành chính nhằm xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, chính quy, hiện đại với bộ máy tinh gọn, đội ngũ CBCC có trình độ, năng lực chuyên môn, đạo đức công vụ cao, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Đồng thời, để mở cửa hội nhập, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ.

1.3. Mục tiêu của cải cách hành chính

Mục tiêu của CCHC là xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

1.4. Nhiệm vụ của cải cách hành chính

Cải cách hành chính có các nhiệm vụ chính là: hoàn thiện thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính.

1.5. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính

Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/01/1995 của Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa VII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính đề ra mục tiêu “Xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội”. Đây được xem là dấu mốc khởi đầu quan trọng của sự nghiệp cải cách nền hành chính.

Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 của Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khóa VIII) “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh” cũng đề ra nhiệm vụ “Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước” trên cơ sở “Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khóa X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước đã đề ra các quan điểm cụ thể: CCHC phải được tiến hành trên cơ sở các nghị quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới phương thức và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng; tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quy chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan và cả bộ máy nhà nước, thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt nhất cho Nhân dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhân dân; các chủ trương, giải pháp CCHC phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. CCHC phải được tiến hành đồng bộ, vững chắc có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

Có thể khẳng định quan điểm của Đảng ta về CCHC là hoàn toàn đúng đắn và đầy đủ.

1.6. Các chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước

1.6.1. Chương tình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 

- Mục tiêu: xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

- Nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC; cải cách tài chính công.

1.6.2. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020

- Mục tiêu: xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính; xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước; xây dựng đội ngũ CBCC, viên chức có đủ phẩm chất và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.

- Nội dung: cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính.

2. Lý luận về năng lực cạnh tranh quốc gia

2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia

Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp các thể chế, chính sách và nhân tố quyết định mức độ hiệu quả và tính năng suất của một quốc gia. Một nền kinh tế có năng suất, hiệu quả là nền kinh tế có năng lực sử dụng, khai thác tốt các nguồn lực có hạn.

Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 1997 đưa ra quan điểm: “Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác. Năng lực cạnh tranh quốc gia cũng có thể hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, xác định sự thay đổi tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người theo thời gian”. Có thể hiểu, năng lực cạnh tranh có ý nghĩa là năng suất sản xuất quốc gia. Năng lực cạnh tranh quốc gia phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng nguồn lực con người, tài nguyên về vốn của một quốc gia, bởi vì chính năng suất xác định mức sống bền vững thể hiện qua mức lương, tỷ suất lợi nhuận từ vốn bỏ ra, tỷ suất lợi nhuận thu được từ tài nguyên thiên nhiên. 

Nói cách khác, bản chất của năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực vận hành nền kinh tế có hiệu quả với chi phí hợp lý nhất, mang lại kết quả thịnh vượng và bền vững tối đa nhất. Năng lực cạnh tranh quốc gia có mối tương quan mật thiết với môi trường kinh doanh. Hoàn thiện và đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thực thi các quy định pháp luật cũng như các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, mà còn thúc đẩy phân bổ nguồn lực một cách minh bạch. Đây được coi là nguồn lực trực tiếp và gián tiếp nâng cao năng suất của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Hiện nay, vẫn còn nhiều cách hiểu và luận giải khác nhau về khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, nhiều quan điểm thống nhất cho rằng yếu tố cốt lõi của năng lực cạnh tranh quốc gia là năng suất, cụ thể là năng suất sử dụng các yếu tố vốn và lao động. Năng suất là nhân tố quyết định mức sống trong dài hạn của quốc gia, là yếu tố quyết định mức thu nhập bình quân đầu người của mỗi nước. Năng suất của nguồn nhân lực quyết định tiền lương, còn năng suất sử dụng vốn quyết định lợi tức mà mỗi đồng vốn có thể mang lại. Năng lực cạnh tranh quốc gia là tập hợp những nhân tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của đất nước, phản ánh năng lực thu hút đầu tư để đạt được sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, từ đó đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội và nâng cao mức sống của Nhân dân.

Nền kinh tế phát triển bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào năng lực cạnh tranh quốc gia cao hay thấp, cũng như mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh.

2.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia 

Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia là căn cứ đo lường khuynh hướng của các thể chế, chính sách, những yếu tố tạo thành trạng thái hiện thời và những mức giới hạn về trạng thái thịnh vượng kinh tế.

Năng lực cạnh tranh quốc gia được đánh giá theo mô hình của WEF từ năm 1997, dựa trên cơ sở Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) được lượng hóa từ 12 chỉ tiêu trụ cột (chỉ tiêu cơ bản), chia thành 03 nhóm chỉ tiêu thành phần. Cụ thể, nhóm 1 - các chỉ số phản ánh các yêu cầu căn bản của một nền kinh tế, gồm: thể chế, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục tiểu học; nhóm 2 - các chỉ số để nền kinh tế phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả, gồm: giáo dục và đào tạo sau tiểu học, hiệu quả thị trường hàng hóa, hiệu quả thị trường lao động, trình độ phát triển của thị trường tài chính; sẵn sàng công nghệ và quy mô thị trường; nhóm 3 - các chỉ số phản ánh trình độ của doanh nghiệp và năng lực đổi mới sáng tạo, gồm: trình độ kinh doanh, năng lực đổi mới sáng tạo.

Mặc dù 12 chỉ số trụ cột được đo lường riêng biệt, nhưng trên thực tế, các trụ cột này và các chỉ số thành phần đều liên quan đến nhau và tương tác, hỗ trợ cho nhau. Mỗi chỉ tiêu lại bao gồm một số chỉ tiêu chi tiết, tổng số có 111 chỉ tiêu. Các chỉ tiêu chi tiết được tính toán chuyển đổi sang thang đo từ 1 đến 7. Hiện nay Chỉ số GCI của WEF được công nhận rộng rãi và là chỉ số phổ biến dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế trong tương quan so sánh toàn cầu.

Qua phân tích các bộ chỉ số, cho thấy một số nhóm nhân tố cần phải tập trung phân tích, đánh giá và có giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, bao gồm:

Một là, nhóm các nhân tố về thể chế kinh tế và thực thi thể chế kinh tế, gồm: các quy định pháp luật và thực thi pháp luật trong kinh doanh và cạnh tranh; vấn đề cải cách tư pháp; phòng, chống tham nhũng; cải cách hành chính công.

Hai là, nhóm các vấn đề kinh tế vĩ mô, gồm: tính bền vững môi trường kinh tế vĩ mô; thực trạng về năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam.

Ba là, nhóm các vấn đề tiếp cận nguồn lực và thị trường, gồm: phát triển các nguồn lực cơ bản phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị trường; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.

Bốn là, nhóm các vấn đề về phát triển doanh nghiệp và khởi nghiệp.

Năm là, nhóm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực an ninh, an toàn cũng như các yếu tố xã hội như y tế và giáo dục.

2.3. Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia

- Đất đai và tài nguyên thiên nhiên: theo lý thuyết cổ điển thì lợi thế so sánh của mỗi quốc gia dựa vào việc phát triển các ngành sử dụng nhiều nhân tố sản xuất mà mình dư thừa. Đối với các nước đang phát triển, tài nguyên thiên nhiên lại là điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển. Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là phân bố không đồng đều. Nhiều nước đang phát triển được thiên nhiên rất ưu đãi khi sở hữu nhiều tài nguyên quý hiếm với trữ lượng lớn. Để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, các nước đang phát triển chú ý nhiều đến các chính sách khai thác, sử dụng các nguồn lực, đặc biệt những nguồn lực sẵn có của quốc gia là tài nguyên và lao động. Trong giai đoạn đầu, việc khai thác và sử dụng tài nguyên đã đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này.

- Nguồn nhân lực: trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển, kinh tế tri thức được coi là chìa khóa cho sự phát triển thì lao động chất lượng tốt dựa trên hao phí đào tạo hợp lý sẽ là lợi thế để phát triển. Điều đó được thể hiện ở năng suất, sản phẩm cận biên của lao động cũng như sự thích ứng của con người sau khi được đào tạo. Nguồn nhân lực mà hạt nhân là lao động kỹ thuật, toàn bộ thể lực, trí lực với trình độ chuyên môn, kỹ năng mà con người tích lũy được, có khả năng đem lại thu nhập vượt trội trong tương lai. Theo đó, có ba nguồn nhân lực chủ yếu quyết định sự phát triển là: người lao động thể lực, chuyên gia lành nghề và những người có ý tưởng sáng tạo.

- Các điều kiện nhu cầu: thị trường nội địa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia, giúp các công ty nhận thức, phân tích, phản ứng tốt và nhanh hơn với các nhu cầu của người tiêu dùng, tiên liệu và định hình các nhu cầu trên thị trường thế giới.

- Các yếu tố do con người tạo ra: thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kết cấu hạ tầng, khoa học, công nghệ, cơ chế hoạt động và cạnh tranh của doanh nghiệp.

3. Nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa cải cách hành chính nhà nước và năng lực cạnh tranh quốc gia

CCHC nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để quản lý, quản trị có hiệu lực, hiệu quả công việc, nhiệm vụ của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển và phục vụ đắc lực người dân. CCHC nhằm xây dựng đội ngũ CBCC có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức công vụ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời, để mở cửa hội nhập quốc tế, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ.

CCHC còn là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để chuyển đổi nền hành chính nhà nước sang quản lý công, quản lý công mới và quản trị nhà nước theo kinh nghiệm của các nước phát triển. Như vậy, mục tiêu của CCHC nhà nước cũng là để đạt được các chỉ tiêu cơ bản của năng lực cạnh tranh quốc gia, vì năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp các thể chế chính sách và nhân tố quyết định mức độ, hiệu quả, năng suất quản trị quốc gia. 

Thực hiện tốt các nhiệm vụ của CCHC nhà nước cũng là để đạt được các chỉ tiêu của năng lực cạnh tranh quốc gia và kiến tạo được năng lực cạnh tranh quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản trị, khai thác các nguồn lực của quốc gia có hiệu quả, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất lao động xã hội, đảm bảo cho đời sống của người dân và xã hội thịnh vượng. 

Như vậy, giữa CCHC nhà nước và kiến tạo năng lực cạnh tranh quốc gia có cùng mục tiêu và nhiệm vụ. Mối quan hệ giữa CCHC nhà nước và năng lực cạnh tranh quốc gia là mối quan hệ nhân quả, gắn kết chặt chẽ với nhau, tác động và bổ sung cho nhau. CCHC nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được các chỉ tiêu của năng lực cạnh tranh quốc gia. Ngược lại, kiến tạo và hội đủ các chỉ tiêu của năng lực cạnh tranh quốc gia cũng tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện thành công CCHC nhà nước, cải cách quản lý, quản trị đất nước./.

 

PGS.TS Văn Tất Thu, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.