Hà Nội, Ngày 08/11/2025

Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân trong thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp hiện nay

Ngày đăng: 08/10/2025   14:33
Mặc định Cỡ chữ

Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng, làm rõ những thành tựu đạt được và những hạn chế trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và quyền làm chủ của Nhân dân ở Việt Nam giai đoạn 2016 đến nay theo các phương thức: (i) Mở rộng, phát triển dân chủ trên các lĩnh vực; (ii) Mở rộng, phát triển phương châm thực hiện dân chủ; (iii) Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ngày càng được làm sáng tỏ; (iv) Phát huy vai trò góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Bài viết cũng chỉ ra những nguyên nhân và kinh nghiệm trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp hiện nay.

Từ khóa: chính quyền địa phương 02 cấp; dân chủ xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; quyền làm chủ của nhân dân.

Abstract: The article provides an overview and assessment of the current situation, highlighting both the achievements and limitations in promoting socialist democracy and the people’s mastery in Vietnam from 2016 to the present. It examines the implementation through four key dimensions: (i) expanding and developing democracy across various sectors; (ii) broadening and deepening the guiding principles for democratic practices; (iii) further clarifying the mechanism of “the Party’s leadership, the State’s management, and the people’s mastery”; and (iv) enhancing the people’s role in contributing opinions to Party-building and government-building. The study identifies underlying causes and draws practical lessons in promoting the people’s right to mastery. On that basis, it proposes a set of comprehensive solutions to improve the socialist rule-of-law state and effectively realize the principle “the people know, the people discuss, the people do, the people inspect, the people supervise, and the people benefit” in the implementation of the current two-tier local government model.

Keywords: two-tier local government; socialist democracy; socialist rule-of-law state; promotion of socialist democracy; people’s mastery.

1. Mở đầu

Trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) không chỉ là nền tảng tư tưởng của chế độ mà còn là động lực nội sinh bảo đảm cho sự phát triển bền vững của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bước vào giai đoạn cải cách thể chế sâu rộng, đặc biệt với việc triển khai chủ trương, đường lối của Đảng về sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong đó trọng tâm là việc thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp (tỉnh - xã), thì vấn đề phát huy quyền làm chủ của Nhân dân càng trở nên cấp bách và có ý nghĩa chiến lược. Đây không chỉ là bước điều chỉnh hành chính địa giới, tinh gọn bộ máy tổ chức đơn thuần, mà là cuộc cải tổ phương thức quản trị quốc gia, trong đó năng lực tham gia, giám sát, phản biện xã hội và đồng thuận của người dân chính là “chỉ số xanh, sạch, sống” của nền dân chủ XHCN.

Từ sau khi Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ: “Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước”, hàng loạt thiết chế bảo đảm dân chủ được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, tiêu biểu là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; cơ chế đối thoại định kỳ giữa chính quyền và Nhân dân; các mô hình chính quyền điện tử, chính quyền số được mở rộng. Tuy nhiên, khoảng cách giữa thể chế và thực thi vẫn tồn tại, việc phát huy dân chủ ở một số nơi còn mang tính hình thức; cơ chế phản hồi và trách nhiệm giải trình chưa đủ mạnh; sự tham gia của người dân trong quản trị công vẫn hạn chế.

Trong bối cảnh đó, việc đánh giá thực trạng phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của Nhân dân trong triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, đồng thời đề xuất các giải pháp khả thi, có tính thể chế và quản trị hiện đại, là yêu cầu vừa mang tính lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhằm bảo đảm rằng chính quyền địa phương 02 cấp không chỉ tinh gọn về bộ máy mà còn mạnh về dân chủ, minh bạch và năng lực phục vụ Nhân dân.

2. Thực trạng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp hiện nay

2.1. Những chuyển biến tích cực trong thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ trong lĩnh vực chính trị - từ quyền bầu cử đến tham gia giám sát.

Trong những năm gần đây, dân chủ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam được mở rộng cả về phạm vi và chiều sâu, thể hiện rõ nét qua các hoạt động bầu cử, đối thoại, tiếp xúc cử tri và giám sát của nhân dân. Tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đạt 99,16%, trong đó đại biểu là phụ nữ chiếm 26,8%, người dân tộc thiểu số 17,3%[1], phản ánh mức độ bao trùm ngày càng cao của nền dân chủ XHCN. Ở cấp địa phương, việc đối thoại định kỳ giữa người đứng đầu với nhân dân được duy trì theo Quy định số 11-QĐ/TW (ban hành năm 2019)[2], với 1.144 cuộc đối thoại giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2021, giúp tiếp nhận và xử lý kịp thời phản ánh từ cơ sở, hạn chế phát sinh “điểm nóng” xã hội. Bên cạnh đó, đã có 27.071 cuộc tiếp xúc cử tri từ năm 2013 đến năm 2022 cho thấy quyền tham gia, phản biện của người dân đang được thể chế hóa mạnh mẽ[3].

Dân chủ trong kinh tế và quản trị công - từ quyền tham gia đến quyền giám sát.

Dân chủ trong kinh tế đã trở thành nền tảng thúc đẩy công bằng và phát triển bền vững. Khảo sát Ngân sách Mở năm 2023 cho thấy Việt Nam đạt 51/100 điểm minh bạch, tăng 11 bậc so với 2021, minh chứng cho tiến bộ trong công khai hóa ngân sách và đầu tư công. Hệ thống đấu thầu điện tử VNEPS, với 89% doanh nghiệp đánh giá thông tin dễ tiếp cận, giúp giảm chi phí và nâng mức cạnh tranh. Cùng với đó, 93% doanh nghiệp năm 2024 nhận xét thủ tục hành chính minh bạch hơn, tỷ lệ phải “có quan hệ” giảm xuống 31%, thấp nhất từ 2006[4]. Luật Ngân sách nhà nước năm 2025 tiếp tục khẳng định quyền giám sát tài chính - ngân sách của người dân, giúp hình thành văn hóa trách nhiệm giải trình trong quản trị công.

Dân chủ ở cơ sở - hiện thực hóa phương châm “6 dân”.

Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã được thể chế hóa trong Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, đã tạo bước đột phá trong bảo đảm quyền làm chủ trực tiếp. Các xã, phường, thị trấn chủ động công khai ngân sách, quy hoạch, dự án, tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh chủ chốt, và giải quyết 80% đơn thư/năm theo đúng trình tự pháp luật. Đặc biệt, trong doanh nghiệp, 95% đơn vị có ≥30 lao động đã có công đoàn cơ sở, gần 44.000 lao động phi chính thức được kết nạp công đoàn[5]. Điều 73 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định đối thoại định kỳ giữa người sử dụng và người lao động, tạo cơ chế hợp tác, phòng ngừa xung đột và nâng cao niềm tin xã hội. Đây là minh chứng cho việc dân chủ ở cơ sở không còn là khẩu hiệu, mà đã đi vào thực chất của quản trị địa phương.

2.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra trong thực thi dân chủ

Một là, việc thực thi dân chủ chưa đồng đều giữa các cấp, ngành và lĩnh vực.

Dù đạt nhiều tiến bộ, nhưng việc triển khai dân chủ vẫn chưa thực sự đồng bộ. Ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương, các hội nghị nhân dân vẫn thiên về “báo cáo thành tích” hơn là “thảo luận chính sách”; nhiều hình thức “công khai” chưa đi liền với “tham vấn”, khiến người dân ít có cơ hội phản biện trực tiếp. Dù Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 đã quy định rõ trách nhiệm giải trình, song cơ chế giám sát độc lập vẫn thiếu, đặc biệt trong khu vực tư nhân. Công tác tiếp dân và đối thoại còn chưa thống nhất; ở nhiều nơi, lịch tiếp công dân không được niêm yết công khai hoặc chưa xử lý dứt điểm khiếu nại, với tỷ lệ giải quyết khoảng 80%/năm, phần còn lại kéo dài, gây tâm lý bức xúc và giảm niềm tin của người dân vào chính quyền.

Hai là, việc thể chế hóa quyền tham gia chưa theo kịp yêu cầu số hóa quản trị.

Công cuộc chuyển đổi số tạo điều kiện mới cho dân chủ hóa quản trị, nhưng việc thể chế hóa quyền tham gia của người dân vẫn chậm hơn tốc độ phát triển công nghệ. Dữ liệu hành chính còn phân tán, chưa hình thành hạ tầng mở để người dân truy cập, giám sát. Việc lấy ý kiến nhân dân khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu tập trung ở trung ương; ở cấp tỉnh, tỷ lệ đăng tải dự thảo và phản hồi công khai còn hạn chế. Trong quá trình góp ý Hiến pháp năm 2013, dù thu được 28 triệu lượt ý kiến, nhưng chỉ một phần nhỏ được công khai phản hồi cho thấy chuẩn mực về minh bạch và trách nhiệm giải trình vẫn chưa định hình rõ ràng.

Ba là, cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” còn chưa được cụ thể hóa đồng bộ.

Trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, việc sáp nhập đơn vị hành chính khiến việc phân quyền và giám sát gặp nhiều thách thức. Trong đó, việc chuyển giao thẩm quyền từ cấp huyện (trước sáp nhập) lên cấp tỉnh hoặc xuống cấp xã đã ít nhiều tạo khoảng trống trong giám sát, đặc biệt ở các lĩnh vực nhạy cảm như đất đai, đầu tư, tài chính công. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tuy được giao vai trò phản biện xã hội, nhưng chưa có cơ sở pháp lý thống nhất để tham gia vào quy trình hoạch định và kiểm tra việc thi hành chính sách ở cấp tỉnh, cấp xã. Đồng thời, HĐND xã, phường, đặc khu  thường thiếu nhân lực, trình độ chuyên môn và nguồn lực, khiến việc tổ chức tiếp xúc cử tri định kỳ còn mang tính hình thức, chưa trở thành kênh phản hồi hiệu quả giữa dân và chính quyền.

Bốn là, năng lực chủ thể còn hạn chế.

Việc nâng cao trình độ pháp lý và năng lực giám sát của người dân vẫn là điểm nghẽn lớn. Theo Đề án số 977/QĐ-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân, năm 2024 cả nước đã thụ lý 39.641 vụ trợ giúp pháp lý, kết thúc 37.343 vụ, tăng 13% so với 2023[6]; tuy nhiên, nhiều người dân, nhất là vùng sâu vùng xa, vẫn chưa nắm rõ quyền được trợ giúp. Bên cạnh đó, tâm lý e ngại phản biện, “ngại va chạm” và “sợ trách nhiệm” vẫn tồn tại ở cả hai phía, cán bộ công quyền và người dân. Nhiều người chưa quen với văn hóa tranh luận công khai, khiến quá trình tham vấn chính sách thiếu sôi động, còn nặng tính hình thức. Đây là rào cản xã hội - tâm lý cần vượt qua để dân chủ trở thành hành vi tự nhiên trong đời sống xã hội hiện nay.

Năm là, một số thiết chế dân chủ mới chưa đồng bộ với mô hình chính quyền địa phương 02 cấp.

Quá trình thể chế hóa các thiết chế dân chủ mới vẫn chưa tương thích với cấu trúc chính quyền địa phương 02 cấp đang triển khai trên cả nước. Dù nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành quy chế đối thoại định kỳ, công khai tài chính và xây dựng Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, nhưng các công cụ pháp lý cho tự quản cộng đồng, ngân sách xã hội hóa và hội nghị nhân dân điện tử vẫn còn thiếu. Trong khi đó, mô hình chính quyền địa phương 02 cấp đòi hỏi phân cấp mạnh nhưng không buông lỏng kiểm soát, tức là phải có cơ chế pháp lý linh hoạt để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở mọi tầng nấc. Nếu không hoàn thiện, nguy cơ “khoảng trống dân chủ” giữa cấp tỉnh với cấp xã có thể làm suy giảm hiệu quả của mô hình chính quyền mới.

2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế

2.3.1. Nguyên nhân của thành tựu

Về nguyên nhân khách quan, đổi mới tạo ra “động lực” thể chế để quyền làm chủ của Nhân dân được thừa nhận, luật hóa và kiểm chứng trong thực tiễn, khiến các cơ chế tham gia, giám sát ngày càng có chuẩn mực. Trên cơ sở định hướng chiến lược nhất quán của Đảng về hoàn thiện thể chế dân chủ theo Hiến pháp năm 2013, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, khiến các nỗ lực cải cách ở bầu cử, tiếp xúc cử tri, công khai ngân sách, đấu thầu… có điểm đến rõ ràng: mức thụ hưởng thực chất của dân. Chính tính thống nhất mục tiêu giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân làm nên “chất keo” gắn kết cải cách, giúp các thiết chế dân chủ không chỉ tồn tại trên văn bản mà đi vào vận hành, từ bầu cử đến phản hồi chính sách. Tình hình chính trị, xã hội ổn định là điều kiện khách quan, là yếu tố tiên quyết để dân chủ XHCN chuyển dịch từ chủ trương sang thực hành có thể đo lường.

Nguyên nhân chủ quan: (1) Đảng ta đã không ngừng hoàn thiện đường lối gắn tổng kết thực tiễn, kịp thời thể chế hóa bằng luật pháp, chuẩn hóa dân chủ trực tiếp/đại diện ở cơ sở; (2) đặt trọng tâm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đề cao nêu gương, đối thoại và giải quyết đơn thư, củng cố niềm tin và tính chính danh của quyền lực; (3) đổi mới công tác dân vận, phương thức lãnh đạo, phát huy đại đoàn kết, chuyển dân chủ từ “quy định” thành “hành vi” thường nhật trong quản trị. Vòng phản hồi “hoạch định-thực thi-điều chỉnh” được rút ngắn khi tiếng nói của người dân được đưa thẳng vào nghị trường và vào quy trình giám sát, giải trình. Nhờ vậy, các chỉ số thực thi như bầu cử, tiếp xúc cử tri, công khai, minh bạch ngân sách, đấu thầu… có cải thiện thực chất, không chỉ là mục tiêu tuyên ngôn.

2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế

Nguyên nhân khách quan: bên cạnh thành tựu, các hạn chế cũng có nguyên nhân khách quan, tập trung ở những góc độ sau: Mặt trái của kinh tế thị trường và các cú sốc toàn cầu (khủng hoảng, dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng) làm gia tăng chênh lệch, phát sinh bức xúc xã hội và áp lực lên năng lực điều phối, giải trình của thiết chế công. Trong bối cảnh hội nhập sâu, các chiến dịch thông tin xuyên tạc, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền cũng gây nhiễu loạn không gian công, thử thách sức bền đồng thuận. Mặt khác, đổi mới là quá trình chưa có tiền lệ, vừa làm vừa tổng kết, nên nhiều “mối quan hệ lớn” - đặc biệt cách cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” trong bối cảnh phân quyền, số hóa - còn cần thời gian để chuẩn hóa về pháp lý, quy trình và năng lực thực thi. Những độ trễ này làm xuất hiện khoảng cách giữa thiết kế và thực thi, giữa chuẩn mực mong muốn và khả năng đáp ứng của bộ máy ở các không gian, lĩnh vực khác nhau.

Về nguyên nhân chủ quan, có ba nguyên nhân chủ quan như sau: Thứ nhất, nhận thức chưa đồng đều về dân chủ và công tác dân vận trong một bộ phận cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể và cả cán bộ, đảng viên; còn biểu hiện “hình thức chủ nghĩa”, coi dân chủ chủ yếu là công khai thông tin, thiếu tham vấn có chất lượng, thiếu cơ chế phản hồi độc lập. Thứ hai, thể chế hóa chậm và chưa đồng bộ, có chính sách chưa sát nhu cầu, đặc thù địa bàn, còn lúng túng trong đổi mới phương thức vận động, tập hợp quần chúng, trong khi kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết ở nơi, có lúc chưa thường xuyên, kịp thời. Thứ ba, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa thật sự thường xuyên; kỷ luật, kỷ cương có lúc chưa nghiêm; một bộ phận cán bộ thiếu gương mẫu, tạo khe hở cho lợi ích nhóm, làm suy giảm niềm tin và tính thuyết phục của chủ trương đúng đắn khi đi vào cuộc sống.

3. Bài học kinh nghiệm

Một là, “Dân là gốc” - thước đo của mọi chính sách là mức độ thụ hưởng của Nhân dân.

Mọi chính sách, chủ trương chỉ có ý nghĩa khi chuyển hóa thành lợi ích thiết thực cho người dân. Bài học “Dân là gốc” đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải nhìn nhận Nhân dân không chỉ là đối tượng phục vụ mà là chủ thể của quá trình đổi mới. Nhà nước chuyển từ quản lý sang phục vụ, kiến tạo. Các chính sách cần được hoạch định dựa trên điều tra xã hội học, tham vấn cộng đồng, phản biện xã hội và cơ chế phản hồi công khai. Trong bối cảnh chuyển đổi số, việc sử dụng các nền tảng tham vấn trực tuyến, hệ thống chỉ số hài lòng công dân giúp lượng hóa “mức độ dân chủ” bằng thụ hưởng cụ thể. Khi mọi thiết chế đều hướng tới hạnh phúc của người dân, niềm tin chính trị được củng cố, làm sâu sắc mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Hai là, xây dựng Đảng trong sạch, dựa vào Nhân dân để chỉnh đốn và giám sát quyền lực.

Đảng mạnh là điều kiện tiên quyết để dân chủ phát triển thực chất. Kinh nghiệm cho thấy, chỉnh đốn Đảng không chỉ là công việc nội bộ mà phải dựa vào Nhân dân, chủ thể giám sát quyền lực chính trị. Việc công khai quy trình đánh giá, lấy ý kiến tín nhiệm, và xử lý kỷ luật cán bộ vi phạm là minh chứng cho nguyên tắc “Đảng trong sạch từ Nhân dân”. Khi công tác giám sát được số hóa, các vụ việc sai phạm bị phát hiện nhanh, lòng tin của dân được củng cố. Đây là quá trình hai chiều: dân chủ trong Đảng tạo niềm tin cho Nhân dân; còn giám sát của Nhân dân giúp Đảng tự đổi mới, phòng ngừa thoái hóa quyền lực. “Dựa vào dân để xây Đảng” vì thế trở thành chuẩn đạo đức chính trị mới của giai đoạn hiện nay.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ”.

Sự thống nhất giữa ba trụ cột này vừa là nguyên tắc, vừa là phương thức bảo đảm dân chủ thực chất. Thực tiễn cho thấy, nếu một mắt xích yếu, toàn bộ cơ chế sẽ mất cân bằng. Đảng cần lãnh đạo bằng định hướng chiến lược, Nhà nước quản lý bằng pháp luật minh bạch, còn Nhân dân làm chủ bằng tham gia, giám sát, phản biện có tổ chức. Mô hình này chỉ bền vững khi mỗi chủ thể đều có trách nhiệm giải trình rõ ràng, được luật hóa và vận hành bằng công nghệ quản trị số. Bài học cốt lõi là phải gắn “ý Đảng” với “lòng dân” bằng thiết chế cụ thể - đối thoại định kỳ, công khai ngân sách, phản hồi chính sách - để cơ chế ba bên trở thành chuỗi tương tác liên tục, không dừng ở khẩu hiệu.

Bốn là, tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc gắn với chuyển đổi số và minh bạch hóa quản trị công .

Đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chính trị mà là tài sản thể chế, nguồn năng lượng xã hội để vượt qua chia rẽ, khủng hoảng niềm tin. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đoàn kết chỉ bền khi đi đôi với công khai, minh bạch và đồng thuận dựa trên thông tin thật. Việc triển khai các cổng dữ liệu mở, bản đồ công khai đầu tư ngân sách, hệ thống lấy ý kiến trực tuyến giúp Nhân dân tham gia, kiểm chứng và góp ý. Công nghệ trở thành cầu nối giữa chính quyền với người dân, giảm chi phí giao dịch xã hội và tăng hiệu quả phản biện. Đó chính là hình thức “đại đoàn kết số hóa”, nơi ý chí và nguyện vọng của người dân được kết nối trực tiếp với trung tâm ra quyết định.

Năm là, dân vận theo phong cách Hồ Chí Minh - biến đối thoại thành văn hóa công vụ.

Trong thời đại truyền thông số, công tác dân vận cần thoát khỏi mô hình truyền đạt một chiều để trở thành đối thoại hai chiều dựa trên lòng tin. Tư tưởng Hồ Chí Minh “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân” phải trở thành tiêu chuẩn hành vi của cán bộ, đảng viên. Các buổi tiếp dân, đối thoại trực tiếp, diễn đàn trực tuyến cần được coi là chỉ số đo lường mức độ hiệu KPI bắt buộc, công khai kết quả giải quyết. Khi cán bộ, đảng viên “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, niềm tin được tái tạo. Dân vận hiện đại không chỉ cảm hóa bằng lời nói mà bằng năng lực phục vụ, bằng sự hiện diện có trách nhiệm của công quyền, yếu tố làm nên bản lĩnh của chính quyền dân chủ trong mô hình hai cấp hiện nay.

4. Giải pháp tăng cường phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong mô hình chính quyền địa phương 02 cấp

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật và cơ chế thực hiện quyền làm chủ. Hoàn thiện pháp luật không chỉ là xây dựng quy định mới, mà là tái thiết toàn bộ quy trình thực hiện quyền làm chủ theo hướng rõ ràng, khả thi và có chế tài chặt chẽ. Ba khâu trọng yếu gồm: (i) tham vấn bắt buộc với tài liệu công khai, dễ hiểu, đa ngữ; (ii) phản hồi bắt buộc từ chính quyền về việc tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến người dân, kèm lý do rõ ràng; (iii) chế tài minh bạch nếu không thực hiện quy trình dân chủ. Ở cấp tỉnh ban hành Quy chế thống nhất toàn tỉnh; ở cấp xã vận hành Sổ tay hướng dẫn quy trình thực hiện dân chủ (trình bày dạng bảng kiểm). Thiết lập kênh tiếp nhận ý kiến đa dạng: từ cổng thông tin điện tử đến hòm thư công vụ tại thôn/bản. Định kỳ công bố báo cáo tham gia, phản hồi gắn trách nhiệm người đứng đầu. Khi quy trình tham gia trở thành yêu cầu bắt buộc, quyền làm chủ mới đi từ khẩu hiệu đến thực chất.

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo xu hướng từ “quản lý” sang “phục vụ”, đo bằng sự hài lòng của người dân. Muốn chính quyền phục vụ tốt, cán bộ phải đủ năng lực và có tư duy phục vụ. Cần đổi mới căn bản bốn khâu: tuyển dụng, đào tạo, đánh giá, đãi ngộ. Tuyển dụng công khai, minh bạch, cạnh tranh, bắt buộc kiểm tra đạo đức công vụ và kỹ năng dân vận. Tổ chức đào tạo định kỳ về pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, kỹ năng tiếp dân, đối thoại, xử lý phản hồi, và truyền thông rủi ro. Bồi dưỡng kỹ năng số để triển khai quy trình trực tuyến và dữ liệu mở. Áp dụng hệ thống chỉ số đo lường hiệu quả phục vụ: thời gian xử lý hồ sơ, tỷ lệ đúng hạn, mức độ hài lòng. Gắn kết hệ thống chỉ số đo lường hiệu quả phục vụ với khen thưởng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ. Công khai bảng xếp hạng xã/phường theo quý. Thí điểm luân chuyển cán bộ trẻ về xã trong 12 đến 18 tháng theo mô hình “thực tập lãnh đạo xã”, kết hợp tổ chức diễn đàn học tập đồng cấp để chia sẻ thực hành tốt. Khi người dân hài lòng, chính quyền sẽ vững mạnh.

Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của hệ thống chính trị theo hướng phục vụ. Trong mô hình chính quyền địa phương 02 cấp tinh gọn, phương thức lãnh đạo phải chuyển từ mệnh lệnh hành chính sang khơi dậy, dẫn dắt và phục vụ. Trọng tâm là chuyển hóa vai trò của hệ thống chính trị, từ “chủ thể quản lý” thành “người đồng hành cùng dân”. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần được tái định vị là cầu nối hai chiều, có vai trò thúc đẩy phản biện xã hội, giám sát quyền lực và lan tỏa thực hành dân chủ. Cần quy định rõ trách nhiệm phản hồi của chính quyền với kiến nghị từ Mặt trận, gắn với thời hạn cụ thể và công bố kết quả khắc phục. Đồng thời, các cấp ủy đảng cần đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ, gắn với việc lắng nghe dân, giải quyết kiến nghị, xây dựng mô hình “chi bộ lắng nghe dân nói - chính quyền làm theo dân muốn”. Khi hệ thống chính trị thực sự vì dân, quyền làm chủ sẽ không chỉ được bảo đảm mà còn trở thành nền tảng của sự đồng thuận và phát triển bền vững.

Bốn là, kiểm định chất lượng dịch vụ công độc lập, dựa trên bằng chứng và tiếng nói người dân. Chất lượng dịch vụ công là thước đo chính xác nhất về hiệu quả quản trị. Tuy nhiên, hiện nay việc đánh giá chủ yếu do nội bộ thực hiện, thiếu khách quan, do đó cần nghiên cứu, xây dựng hệ thống kiểm định độc lập, liên ngành, có sự tham gia trực tiếp của người dân và doanh nghiệp. Bộ chỉ số đánh giá cần bao gồm tỷ lệ giải quyết đúng hạn, mức độ hài lòng, tỷ lệ phản ánh được xử lý, thời gian giải quyết trung bình... Các dữ liệu này phải được công khai định kỳ dưới dạng bảng xếp hạng xã/phường/đặc khu theo quý. Triển khai nền tảng khảo sát điện tử và trực tiếp với bảo đảm ẩn danh. Kết quả kiểm định phải được sử dụng để điều chỉnh quy trình, khen thưởng đơn vị xuất sắc và xử lý đơn vị yếu kém. Khi người dân được quyền “chấm điểm” chính quyền và phản hồi được lắng nghe, dịch vụ công mới thực sự là vì dân.

Năm là, thúc đẩy dân chủ trực tiếp của nhân dân thông qua các mô hình thí điểm có thiết kế chuẩn và khả năng nhân rộng. Trong mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, việc thúc đẩy dân chủ trực tiếp trở nên cấp thiết nhằm bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân ở cơ sở. Đây không chỉ là biểu hiện sinh động của quyền làm chủ mà còn là công cụ củng cố niềm tin, nâng cao trách nhiệm cộng đồng và nuôi dưỡng văn hóa đối thoại. Cần sớm ban hành khung thí điểm cấp tỉnh cho ba mô hình dân chủ trực tiếp có thiết kế chuẩn và khả năng nhân rộng: (i) Ngân sách tham gia, dành 5-10% chi đầu tư nhỏ để dân trực tiếp đề xuất, thảo luận, giám sát; (ii) Trưng cầu ý dân chọn lọc, áp dụng bắt buộc với các quyết sách quan trọng, do ủy ban độc lập tổ chức; (iii) Tự quản cộng đồng, phát huy vai trò thôn, tổ dân phố trong xây dựng hương ước và giám sát dịch vụ công. Đồng thời, cần mở rộng không gian thảo luận đa dạng, khuyến khích thanh niên, phụ nữ, người yếu thế tham gia góp ý ở cấp xã. Kết quả thí điểm phải được hậu kiểm, tích hợp vào quy hoạch, ngân sách năm sau, chuẩn hóa và nhân rộng nếu hiệu quả. Đây là hướng đi phù hợp xu thế quản trị công hiện đại, hình thành hệ sinh thái dân chủ đa tầng, thực chất và bền vững.

Kết luận

Phát huy quyền làm chủ và khơi dậy sức mạnh của nhân dân là nhiệm vụ trung tâm trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong bối cảnh cải cách thể chế và xây dựng chính quyền địa phương 02 cấp tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì đây không chỉ là đòi hỏi về lý luận mà còn là yêu cầu thực tiễn cấp bách. Những thành tựu đạt được trong gần 40 năm đổi mới cho thấy tầm quan trọng của quyền làm chủ của Nhân dân trong việc củng cố niềm tin xã hội, huy động trí tuệ và trách nhiệm công dân. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, tổ chức, công nghệ và văn hóa chính trị vẫn đang cản trở quá trình này. Để phát huy thành tựu và khắc phục khó khăn, cần tổ chức thực hiện hệ thống giải pháp toàn diện, khả thi, bao gồm: hoàn thiện thể chế pháp luật; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; đẩy mạnh giáo dục chính trị, pháp luật; ứng dụng công nghệ số và tăng cường dân chủ trực tiếp. Những giải pháp này nếu được triển khai đồng bộ, nhất quán sẽ góp phần bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, từ đó tạo lập nền tảng vững chắc cho phát triển đất nước nhanh, bền vững, dân chủ và hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

-----------------------------------------------------------------------------------

Ghi chú:

[1]. Theo Báo Nhân dân, Tổng kết công tác bầu cử Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Cổng thông tin điện tử Hà Tĩnh ngày 19/7/2016, https://hatinh.dcs.vn/tin-bau-cu/news/tong-ket-cong-tac-bau-cu-quoc-hoi-khoa-xiv-va-hoi-dong-nhan-dan-cac-cap-nhiem-ky.html

[2]. Bộ Chính trị, Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân | Hệ thống văn bản.

[3]. Lê Anh, Đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri: để chính sách sát thực tiễn, hợp lòng dân, Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam, ngày 04/01/2024, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=83731

[4]. Anh Minh, Ngân sách của Việt Nam ngày một minh bạch hơn, Báo điện tử Chính phủ, ngày 03/7/2027, https://baochinhphu.vn/ngan-sach-cua-viet-nam-ngay-mot-minh-bach-hon-102240703144758814.htm

[5]. Quế Chi, Cả nước kết nạp mới 1.230.594 đoàn viên trong năm 2024, Báo Lao động ngày 05/12/2024, https://laodong.vn/cong-doan/ca-nuoc-ket-nap-moi-1230594-doan-vien-trong-nam-2024-1430500.ldo 

[6]. Ngân Giang, Một số kết quả công tác trợ giúp pháp lý năm 2024, Cổng Thông tin Bộ Tư pháp ngày 03/5/2015, https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=1983&l=Nghiencuutraodoi

​​​​​​​PGS.TS Nguyễn Ngọc Ánh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bình luận

Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng, làm rõ những thành tựu đạt được và những hạn chế trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và quyền làm chủ của Nhân dân ở Việt Nam giai đoạn 2016 đến nay theo các phương thức: (i) Mở rộng, phát triển dân chủ trên các lĩnh vực; (ii) Mở rộng, phát triển phương châm thực hiện dân chủ; (iii) Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ngày càng được làm sáng tỏ; (iv) Phát huy vai trò góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Bài viết cũng chỉ ra những nguyên nhân và kinh nghiệm trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp hiện nay.

" />

Tin tức cùng chuyên mục

Điểm sáng nhất trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW là tổ chức thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và tổ chức lại địa giới hành chính cấp tỉnh và cấp xã

Ngày đăng 06/11/2025
Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, sáng 06/11/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Điểm sáng nhất, đột phá nhất trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII là tổ chức thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và tổ chức lại địa giới hành chính cấp tỉnh và cấp xã, tạo không gian, tiềm năng và cơ hội phát triển cho đất nước trong kỷ nguyên mới.

Bố trí đầy đủ nhân lực, cơ sở vật chất, tăng cường điều động cán bộ cấp tỉnh hỗ trợ cho cấp xã

Ngày đăng 06/11/2025
Đó là yêu cầu của Chính phủ đối với các địa phương về triển khai nhiệm vụ trọng tâm những tháng cuối năm 2025.

Cần bảo đảm tính liên thông, bổ trợ của chính quyền 3 cấp (Trung ương - Tỉnh/thành phố - Xã/phường) theo ba trục: thể chế - nguồn lực - dữ liệu

Ngày đăng 05/11/2025
Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, sáng 05/11/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Để mô hình chính quyền địa phương 2 cấp phát huy hiệu quả tối đa, cần bảo đảm tính liên thông, bổ trợ của chính quyền 3 cấp (Trung ương - Tỉnh/thành phố - Xã/phường) theo ba trục: thể chế - nguồn lực - dữ liệu. Trong cấu trúc liên thông ấy, chính quyền Trung ương giữ vai trò điều hành, kiến tạo và bảo đảm thống nhất trên toàn hệ thống.

Tổng Bí thư: Giao quyền phải đi cùng nguồn lực, nhân lực, công cụ và cả vùng an toàn pháp lý để cán bộ dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Ngày đăng 04/11/2025
Chiều 04/11/2025, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, phát biểu, trao đổi thông tin về một số điểm mới và những định hướng quan trọng trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã gợi mở một số nhóm nội dung để các đại biểu Quốc hội cùng trao đổi, làm rõ thêm, trong đó có nội dung về phân cấp, phân quyền và tổ chức bộ máy.

Tăng cường biệt phái cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về cơ sở; khẩn trương trình Chính phủ Nghị định về phân loại đơn vị hành chính

Ngày đăng 31/10/2025
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đôn đốc, kiểm tra việc rà soát, sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm đúng vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tăng cường biệt phái cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về cơ sở; khẩn trương trình Chính phủ Nghị định về phân loại đơn vị hành chính làm cơ sở cho việc bố trí, quản lý biên chế và sắp xếp tổ chức bộ máy.