Tóm tắt: Thực hiện chính sách xã hội là chủ trương lớn của Đảng, một nhiệm vụ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển cũng như tiến bộ và công bằng xã hội. Với phương châm “phát triển vì con người, không để ai bị bỏ lại phía sau”, hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, bao trùm, toàn diện ở nước ta đang được thực hiện đang được triển khai nhất quán, mạnh mẽ, với nguồn lực đầu tư thiết thực và kết quả cụ thể, góp phần bảo đảm nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của người dân, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, là mục tiêu vừa là động lực trong kỷ nguyên phát triển bền vững đất nước.

Summary: Implementing social policies is a major policy of the Party, a task that plays an important role in development as well as social progress and equity. With the motto "development for people, leaving no one behind", the multi-layered, inclusive, comprehensive social security policy system in our country is being implemented consistently and strongly, with practical investment resources and specific results, contributing to ensuring the legitimate needs and aspirations of the people, creating momentum for the country's socio-economic development, harmoniously combining economic growth with progress and social equity, which is both the goal and the driving force in the era of sustainable national development.
Từ khoá: Chính sách xã hội; quan điểm của Đảng; kỷ nguyên mới.
Key words: Social policy; Party viewpoint; new era.
1. Chính sách xã hội bao trùm, bền vững - động lực phát triển bền vững đất nước
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”1. Tiến bộ, công bằng xã hội là mục tiêu, là động lực của phát triển bền vững đất nước, thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang xây dựng. Theo Cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”2.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định quan điểm “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”, Đảng ta ngày càng “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong chính sách xã hội”3. Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, chăm lo chính sách xã hội. coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền vững đất nước. Đảng ta xác định “Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước”4. Cách tiếp cận của chính sách xã hội cũng được điều chỉnh “từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”5. Kết hợp hài hoà giữa tiếp tục đảm bảo an sinh xã hội, các chính sách xã hội khác để tiếp tục đảm bảo ổn định xã hội, đồng thời tập trung cho phát triển xã hội, tiến bộ xã hội thông qua phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững và làm động lực phát triển kinh tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, với khát vọng đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, Bộ Chính trị ban hành “Bộ tứ trụ cột” tạo bước đột phá để khơi thông các “điểm nghẽn”, tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Các Nghị quyết của Bộ Chính trị đã thể hiện tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện”. Đồng thời, là định hướng, tạo nền tảng, động lực quan trọng trong thực hiện chính sách xã hội bao trùm, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới.
Đột phát phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số góp phần nâng cao năng lực quản lý, quản trị nhà nước về các lĩnh vực y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội và năng lực phục vụ của hệ thống y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội và công tác quản lý phát triển xã hội thông qua ứng cụng công nghệ số. Tăng khả năng tiếp công thân tin, dịch vụ xã hội cho người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa thông qua hạ tầng số. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong khoa học và công nghệ, bao gồm nhân lực phục vụ cho các chương trình y tế, giáo dục, an sinh xã xã hội. Tạo chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển công nghệ trong lĩnh vực xã hội, giúp các tổ chức xã hội đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ xã hội.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong tình hình mới góp phần mở rộng cơ hội học tập, hợp tác quốc tế trong giáo dục, y tế, đào tạo nghề, nâng cao năng suất lao động và cơ hội việc làm cho người dân. Đồng thời, học hỏi, tiếp thu các mô hình chính sách xã hội tiên tiến, vận dụng linh hoạt, cụ thể trong điều kiện đất nước. Quá trình đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật là định hướng lớn để Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng pháp luật liên quan đến an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, bảo hiểm, quyền người yếu thế. Tăng cường thực thi pháp luật, đảm bảo chính sách xã hội không chỉ nằm trên giấy mà được triển khai đầy đủ. Củng cố thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền trong cung cấp dịch vụ xã hội; giảm tình trạng chậm trễ, thiếu minh bạch. Thúc đẩy xây dựng văn hóa tôn trọng pháp luật, cân nhắc quyền lợi của người dân trong mọi hoạt động.
Xác định khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế đất nước; là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân là đột phá để kích hoạt tính tiên phong, sáng tạo của khu vực này trong tạo việc làm, đóng góp vào tăng trưởng, sẵn sàng đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất mới, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh quốc gia, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng thời, tạo môi trường cho doanh nghiệp tư nhân tham gia nhiều hơn vào cung ứng dịch vụ xã hội (y tế tư nhân, trường học tư nhân, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi…). Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực tư nhân, cung cấp các giải pháp mới trong an sinh xã hội, như mô hình tài chính vi mô, bảo hiểm vi mô, fintech ứng dụng cho người dân khó khăn.
Đặc biệt, Nghị quyết số 71 về “Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo”; Nghị quyết số 72 về “Một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân” là tiếp nối và bổ sung mạnh mẽ cho “Bộ tứ Nghị quyết” chiến lược, tạo nên một chỉnh thể thống nhất, mũi đột phá để hiện thực hóa hai mục tiêu 100 năm, xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, trường tồn và bền vững. Nghị quyết 71 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang tầm chiến lược để thực hiện đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nằm trong tổng thể sự đột phá của các lĩnh vực để đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đảng ta không chỉ nhất quán quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, mà còn khẳng định vai trò, sứ mệnh của giáo dục là “quyết định tương lai của đất nước”. Người dân được thụ hưởng chính sách đột phá để thực hiện mục tiêu mở rộng đối tượng phổ cập giáo dục và giáo dục bắt buộc; đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại, hạ tầng công nghệ, xây dựng nền tảng giáo dục thông minh theo chuẩn quốc gia; chương trình dinh dưỡng học đường… Đặc biệt, với các mô hình như mạng luới trường phổ thông nội trú tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn và biên giới; mô hình cơ sở giáo dục chuyên biệt cấp Trung học phổ thông… sẽ góp phần nhanh chóng hiện thực hoá mục tiêu công bằng trong tiếp cận giáo dục, thể hiện tính nhân văn của chế độ; phù hợp với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường vào năm 2045.
Nghị quyết số 72 về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, có ý nghĩa chiến lược, toàn diện, trước mắt và lâu dài, mang tính hành động cao, thể hiện sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong kỷ nguyên phát triển mới. Người dân là chủ thể trung tâm, được ưu tiên cao nhất trong xây dựng, thực hiện các chính sách tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, số năm sống khỏe để phát triển toàn diện; được tiếp cận đầy đủ, công bằng, bình đẳng các dịch vụ y tế. Đồng thời, đổi mới toàn diện với các giải pháp đột phá để hướng đến mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe, sống lâu, sống khỏe, sống lành mạnh, nâng cao thể chất, ý thức bảo vệ sức khỏe và chủ động phòng ngừa bệnh tật trong toàn xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
2. Định hướng thực hiện chính sách xã hội bao trùm, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới
Việt Nam đang vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và đổi mới, sáng tạo với mục tiêu cao cả là vì hạnh phúc của con người, của Nhân dân. Chính sách xã hội trong kỷ nguyên mới là chính sách xã hội bao trùm, bền vững, “chăm lo cho con người, vì con người”. Phát triển bao trùm, bền vững về xã hội không chỉ đơn thuần là việc đạt được những thành tựu phát triển kinh tế mà còn là việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, là sự quan tâm, chăm lo toàn diện đến cuộc sống và quyền lợi của mọi người, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội. Vì vậy, “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau”6.
Quán triệt quan điểm “Đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân hoá xã hội, bảo đảm an sinh cho Nhân dân trong quá trình phát triển … Đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển”7, chuyển hướng tiếp cận từ ổn định và đảm bảo sang ổn định và phát triển. Do đó, chính sách xã hội không chỉ tập trung cho nhóm yếu thế mà vươn lên đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; mở rộng từ an sinh xã hội sang chính sách xã hội bao trùm, toàn diện, gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, để hiện thực hóa hai mục tiêu 100 năm, xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, trường tồn và bền vững.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện 4 Nghị quyết do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức diễn ra sáng 16/9: phải chuyển nhanh từ “ban hành chủ trương” sang “quản trị thực thi”, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo. Thực hiện nghiêm: 5 nhất quán (chính trị-pháp lý-dữ liệu- phân bổ nguồn lực -truyền thông); 3 công khai (mục tiêu- tiến độ- kết quả); 3 sớm (sớm hoàn thiện thể chế- sớm khởi động dự án trọng điểm- sớm bố trí vốn) và 5 rõ (rõ việc, rõ người, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả). Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội bao trùm, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới, cần thực hiện tốt một số định hướng sau:
Thứ nhất, tập trung cho phát triển con người, đầu tư cho con người, thúc đẩy phát triển tầng lớp trung lưu và khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn lực con người cho phát triển. Đẩy mạnh cái cách hành chính, tích cực, chủ động, hiệu quả trong chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, khơi thông “nút thắt”, “điểm nghẽn”, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động. Đột phá phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững, trọng tâm là bảo đảm việc làm bền vững và sinh kế cho người dân. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 57 và Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị, đột phá phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực kỹ thuật-công nghệ, nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, bao phủ được toàn bộ lực lượng lao động và nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội đảm bảo mức sống tối thiểu. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi với người có công với cách mạng, có chính sách ưu tiên hỗ trợ cho nhóm người yếu thế trong xã hội (người không có khả năng lao động, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, gia đình có thu nhập thấp). Có chính sách, cơ chế đột phá trong huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong y tế; cải cách mạnh mẽ tài chính y tế, bảo đảm hiệu quả, bền vững của chính sách bảo hiểm y tế. Đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số gắn với phát triển kinh tế số, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế; triển khai đồng bộ và thực hiện có hiệu quả các giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng. Nhà nước phải huy động nguồn lực đầu tư để nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hoá,... Đẩy mạnh hội nhập toàn diện về văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục - đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác, nhằm phát huy, quảng bá văn hóa dân tộc, tăng cường hợp tác về nghiên cứu, ứng dụng khoa học trong y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đổi mới, nâng tầm chất lượng giáo dục trong nước ngang tầm khu vực và quốc tế, phát triển con người Việt Nam sánh vai cùng bạn bè quốc tế cả về trí tuệ và thể chất. Thực hiện có hiệu quả chủ trương đầu tư xây dựng các trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở tại 248 xã biên giới đất liền góp phần phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện chính sách dân tộc nhằm nâng cao dân trí, chất lượng nhân lực, tạo nguồn cán bộ là người dân tộc, địa phương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào vùng biên giới, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh.
Kết luận
Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội bao trùm, bền vững không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với ổn định và phát triển đất nước. Chính sách xã hội bao trùm, bền vững giúp bảo đảm mọi người dân đều được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, có cơ hội việc làm, được bảo vệ trước các rủi ro và thách thức, từ đó góp phần củng cố niềm tin xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội lâu dài. Trong thời gian tới, cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và cơ chế thực thi, Việt Nam cần chú trọng nghiên cứu, đánh giá tác động của các chính sách hiện hành, cập nhật số liệu, dự báo xu hướng mới để kịp thời điều chỉnh, bổ sung các giải pháp phù hợp./.
----------------------------------------------
Ghi chú:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 79.
2. Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.26 – 27.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 1, tr. 148.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Khoá XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.75.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Khoá XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.175.
6. Đại tướng, GS, TS Tô Lâm, Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 04/8/2024.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Khoá XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.77.
TS Nguyễn Đình Tương - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục