Thụy Điển nằm ở Bắc Âu, giáp với Na Uy, Phần Lan và biển Baltic. Thụy Điển là một nước quân chủ lập hiến, với các chính sách phúc lợi xã hội mạnh mẽ (mang tính toàn dân), bao gồm: y tế công cộng, giáo dục miễn phí, trợ cấp thất nghiệp rộng rãi. Bài viết giới thiệu một số nội dung, đặc điểm chính về mô hình nhà nước phúc lợi Thụy Điển.
![]() |
Đoàn cán bộ Việt Nam nhận chứng chỉ tại Lễ bế giảng sau khóa bồi dưỡng tại Thụy Điển từ ngày 04 đến ngày 19/01/2025. |
1. Về mô hình nhà nước phúc lợi Thụy Điển
Nhà nước phúc lợi Thụy Điển tạo ấn tượng về việc thu thuế thu nhập cao nhưng trên thực tế mức thuế của Thụy Điển cũng tương tự như nhiều nước phát triển khác ở châu Âu. Về căn bản, thuế cao chỉ áp dụng đối với thuế giá trị gia tăng (khoảng 25%). Thụy Điển cho rằng nếu thuế thu nhập cao, việc làm sẽ bị ảnh hưởng (từ đó, có thể tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế) trong khi đó thuế giá trị gia tăng chỉ áp dụng cho người tiêu dùng. Việc tăng thuế cũng được tiến thành dần dần, theo lộ trình từng bước, nhằm đảm bảo cho phúc lợi toàn dân. Về bản chất, nhà nước phúc lợi Thụy Điển theo mô hình của chủ nghĩa tư bản, vận động theo cơ chế thị trường tự do nhưng có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước.
Việc duy trì nhà nước phúc lợi đòi hỏi nguồn lực lớn. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Thụy Điển cho thấy không phải cho đến khi quốc gia trở nên giàu có mới bắt đầu xây dựng nhà nước phúc lợi. Chính phủ Thụy Điển đã tạo lập hệ thống lương hưu toàn dân kể từ năm 1909 khi đất nước còn nghèo. Bối cảnh lúc đó gặp nhiều khó khăn, 25% dân số đã rời Thuỵ Điển, chủ yếu sang Mỹ. Về mặt chính trị, người nông dân có tiếng nói quan trọng vào thời điểm đó, chính quyền và Hoàng gia phụ thuộc vào vai trò của nông dân; do đó, đã ban hành chính sách lương hưu cho toàn dân. Sau này, khi có thu nhập cao hơn, Thụy Điển càng có những điều kiện thuận lợi về nguồn lực để xây dựng nhà nước phúc lợi.
2. Các mô hình nhà nước phúc lợi theo Esping Andersen
Cuốn sách của Esping Andersen về “Ba thế giới của chủ nghĩa tư bản phúc lợi” được xem là giáo trình kinh điển về mô hình nhà nước phúc lợi tại nhiều nước Bắc Âu và một số nước phương Tây. Có ba loại hình nhà nước tư bản phúc lợi:
- Chế độ tự do (đại diện tiêu biểu là Mỹ): cho rằng thị trường sẽ giải quyết được hầu hết các vấn đề.
- Chế độ dân chủ xã hội (đại diện là Thụy Điển): phúc lợi dựa trên quyền công dân/quyền cư trú, chi phí giáo dục, y tế thấp; tất cả mọi người đều có thể tiếp cận dịch vụ y tế.
- Chế độ bảo thủ truyền thống (Đức là đại diện): gia đình là hạt nhân trung tâm, cần phải được bảo vệ khỏi các tác động tiêu cực của thị trường, dựa vào sự tham gia vào thị trường lao động với sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng; đàn ông là lao động chính trong gia đình; nhà nước chỉ can thiệp hay hỗ trợ khi gia đình không tự giải quyết được vấn đề của mình.
3. Thực tiễn xây dựng nhà nước phúc lợi
Về chế độ dành cho người thất nghiệp tại Thụy Điển, người lao động có thể rời khỏi thị trường lao động mà không mất thu nhập, do vậy họ có thể thương lượng điều kiện làm việc tốt hơn với giới chủ. Tuy nhiên, trên thực tế, người lao động phải chứng minh là bị người sử dụng lao động đối xử không phù hợp và đang nỗ lực tìm kiếm việc mới phù hợp. Trong trường hợp không thể có việc làm, người lao động được cấp tương đương 80% so với lương hiện hưởng. Để có chế độ chính sách hỗ trợ thất nghiệp, người lao động phải làm việc ít nhất 6 tháng trong 12 tháng trước đó; người lao động phải chứng minh có khả năng và mong muốn được lao động; phải nộp đơn xin việc ở một số nơi phù hợp nếu không sẽ không có trợ cấp.
Về chính sách lương hưu của Thụy Điển: bắt đầu từ năm 1913; trước đó, người già gặp rất nhiều khó khăn. Ý tưởng là mọi người đều có lương hưu, không chỉ tập trung vào 1 số nhóm người; lúc đó 45% đại biểu Quốc hội là nông dân (có ảnh hưởng chính trị lớn). Đến năm 1935, Thụy Điển mở rộng diện hưởng tiền lương ra toàn dân dựa trên quyền công dân; đến năm 1948: chính sách mở rộng ra toàn dân (do đây là giai đoạn phát triển thịnh vượng của nền kinh tế Thụy Điển, đất nước cũng không phải trải qua chiến tranh. Đến năm 1960, Thụy Điển bắt đầu có những ý kiến cho rằng mức phúc lợi tuy đồng đều nhưng còn hơi thấp; do đó, có những đề xuất mức độ phúc lợi gắn với mức lương để duy trì mức sống tương tự như lúc còn đi làm, cùng với việc cải cách trong các lĩnh vực có liên quan; đến năm 1969: tiếp tục nâng mức lương hưu tối thiểu (bổ sung trợ cấp tiền nhà); 1998: tiếp tục đổi mới giúp cho hệ thống bền vững hơn: dựa trên mức độ phát triển của nền kinh tế, tuổi thọ, các biện pháp khuyến khích lực lượng lao động cống hiến lâu dài (vốn không thuận lợi cho người lao động phổ thông).
Về chính sách nhà ở tại Thụy Điển: Vấn đề nhà ở do luật pháp quốc gia điều tiết và quy định của "quận" (có sự khác nhau giữa 290 quận/huyện trên cả nước). Nhà ở không chỉ là quyền mà là mục tiêu cần thực hiện, ai cũng có quyền có nhà ở - quyền công dân; các quận có trách nhiệm hỗ trợ (chính quyền trung ương cũng có chính sách hỗ trợ nhất định); bao gồm luật quy định về chính sách an cư cho người nhập cư, hỗ trợ tài chính trên cơ sở xem xét đánh giá từng trường hợp. Chính quyền quận thông qua các công ty cung ứng nhà ở để thực hiện chính sách phúc lợi, bao gồm cả hỗ trợ thuê và mua nhà cho người dân. Các công ty này được hiểu là công ty của nhà nước, không tìm kiếm lợi nhuận nhưng vận hành theo quy luật thị trường (bên cạnh đó còn có công ty tư nhân về nhà ở (hoạt động vì lợi nhuận, do quận ký hợp đồng). Việc định giá thuê là theo mức giá chung của thị trường. Chính phủ giải quyết các nhu cầu của các nhóm dễ bị tổn thương. Đối với người khuyết tật thì có căn hộ được thiết kế phù hợp và có nhân viên nhà nước hỗ trợ.
Về quá trình xây dựng chính sách ở Thụy Điển: trước hết, các chính trị gia, chuyên gia, học giả, gửi đề xuất chính sách đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét. Tiếp đến, Chính phủ hoàn thiện đề án trình Quốc hội cho ý kiến và bỏ phiếu thông qua: Nhà nước đóng vai trò đưa ra vấn đề cần giải quyết nhưng đội ngũ các chuyên gia mới là chủ thể đề xuất chính sách (các chuyên gia, hội đồng do nhà nước thành lập, chỉ định, bổ nhiệm. Bên cạnh đó, có một số quan chức, công chức, đại diện các đảng phái, giáo sư Đại học. Các uỷ ban, hội đồng hoạt động có thời hạn, kết thúc sau khi hoàn thành công việc; thường chỉ trong vòng 1 tháng, hoặc lâu hơn nếu là vấn đề phức tạp, thậm chí có uỷ ban hoạt động 10 năm; có tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Trong quá trình xây dựng chính sách, các chuyên gia có thể ý kiến khác nhau; tuy nhiên, các ủy ban chuyên gia cần thống nhất vấn đề cần giải quyết là gì? Vì nếu đã xác định được vấn đề thì từ đó mới đề ra các giải pháp. Các ủy ban thường có ban thư ký giúp việc; sau một thời gian làm việc họ sẽ dần thấy những điểm tương đồng, các điểm chung; trên cơ sở đó, họ xây dựng đề án, có thể lên tới hàng trăm, hàng nghìn trang. Đề án sẽ được gửi cho quảng đại người dân tham gia ý kiến. Mục đích là lắng nghe ý kiến của các tổ chức độc lập và đông đảo người dân để tránh những sai sót chính sách.
![]() |
Một buổi trao đổi của Đoàn cán bộ Việt Nam trong khuôn khổ khóa bồi dưỡng tại Thụy Điển. |
4. Vấn đề già hóa dân số
Sự thay đổi trong cấu trúc tuổi dân số của Thụy Điển cũng khá tương đồng với các quốc gia châu Âu khác. Tuy nhiên, tại nhiều nước châu Âu khủng hoảng già hoá dân số không được chú ý đúng mức như ở Thụy Điển. Cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế và hệ quả giai đoạn 2008-2009 đòi hỏi cần có biện pháp chính sách mạnh mẽ; tuy nhiên, một số nước châu Âu đã ứng phó không hiệu quả. Đại dịch Covid cũng là một ví dụ khác, mặc dù có những chính sách ứng phó tốt hơn; cuộc khủng hoảng Covid liên quan mạnh mẽ hơn đến vấn đề dân số do tấn công mạnh hơn vào nhóm người cao tuổi.
Bài học của Thụy Điển từ thập niên 1930 cho thấy nghiên cứu, dự báo về sự thay đổi nhân khẩu học và các vấn đề liên quan đóng vai trò rất quan trọng cho quá trình hoạch định chính sách: đầu tiên là khủng hoảng tài chính sau đó là suy thoái kinh tế, mất việc làm, dẫn đến việc Nhà nước phải can thiệp; lúc đó, Thụy Điển còn gặp thêm vấn đề tỷ lệ sinh giảm (Pháp cũng gặp vấn đề tương tự). Giải pháp là chính sách hỗ trợ nhà ở (đặc biệt cho các gia đình trẻ) để tạo điều kiện tăng tỷ lệ sinh. Không phải ngẫu nhiên mà “Kỷ nguyên vàng của chủ nghĩa tư bản” đã dựa trên các thành tố như vận dụng chính sách kinh tế Keynesian, đưa vấn đề giới vào chính sách, tăng số lượng phụ nữ tham gia thị trường lao động.
Đến thập niên 1990, nhà nước phúc lợi lại gặp khủng hoảng, đứng trước áp lực phải cắt giảm. Tuy nhiên, Thụy Điển và nhiều nước châu Âu vừa không muốn giảm phúc lợi vừa không muốn tăng thuế. Giải pháp đưa ra là tăng số lượng người đóng thuế cùng với tăng ưu đãi thông qua chính sách thuế, đầu tư vào nguồn nhân lực (nhất là phụ nữ và trẻ em), tăng trợ cấp dịch vụ xã hội cho trẻ em và người già và tạo thêm cơ hội việc làm (các giải pháp phải đồng bộ). Một giải pháp khác để ứng phó với tình trạng già hóa dân số là thúc đẩy mô hình học tập suốt đời và cả hai vợ chồng đều đi làm và cùng chăm sóc gia đình và các con, từ đó tăng tỷ lệ sinh, bảo đảm cơ sở đóng thuế trong tương lai.
Về nền kinh tế tóc bạc: không chỉ là về kinh tế mà còn là chính trị, ở phương Tây mức độ đóng thuế có sự khác biệt giữa các nước, mức độ hưởng ứng của người dân tuỳ thuộc vào mức độ đóng thuế; điều quan trọng là tạo phúc lợi thông qua tạo việc làm bởi thúc đẩy kinh tế sẽ tạo điều kiện tốt hơn để hỗ trợ người già; so sánh khu vực Bắc Âu và Nam Âu (thất nghiệp lần lượt là 8 và 16%, cùng mức thuế). Nếu nhà nước không có chính sách với người già thì sẽ trút gánh nặng này lên gia đình, nhất là phụ nữ, dẫn dến tỷ lệ đi làm của phụ nữ giảm xuống; nếu tạo điều kiện việc làm thì nhà nước vừa có thuế, người dân vừa có thêm thu nhập, người già vừa được chăm sóc tốt hơn. Một cách khác để giảm chi phí là không đưa người già vào bệnh viện hay nhà dưỡng lão mà để chăm sóc ở gia đình - cung cấp dịch vụ y tế tiên tiến tại nhà (trừ những người quá già yếu, không thể để ở nhà họ).
5. Các Nhà nước phúc lợi tại Đông Nam Á
Nghiên cứu về chính sách phúc lợi trên thế giới cho thấy mức độ nghèo đói toàn cầu có xu hướng giảm theo thời gian, có sự đóng góp lớn của các nước châu Á, nổi bật là Trung Quốc. Trong đó, khu vực Đông Nam Á đã chuyển đổi từ việc đề cao mô hình “Đồng thuận Washington” của thập niên 1990, nhấn mạnh cách tiếp cận thị trường đối với phát triển, điều chỉnh cơ cấu, tự do hoá, đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng; chính sách xã hội không nằm trong dòng chính của phát triển sang mô hình “phát triển bao trùm” trong thập niên 2000 (như khuyến nghị của ADB, OECD), hay “cùng thịnh vượng” (WB); mô hình này chú ý hơn tới hệ quả của tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng kinh tế (qua các nghiên cứu của Pikety, Stiglitz, OECD, WB, IMF); kết hợp giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư xã hội, trở thành công cụ chính sách mới của nhiều nước.
Nhìn chung mức độ phúc lợi của các nước Đông Nam Á chưa bằng các nước Bắc Âu và trong các nước Đông Nam Á cũng có các cấp độ khác nhau. Singapore, Malaysia, Brunei ở nhóm trên, tiếp đến là Thái Lan, Việt Nam (tùy theo từng khía cạnh so sánh thì thứ tự có thể thay đổi, ví dụ Việt Nam là nước duy nhất trong khu vực có mô hình Ngân hàng chính sách xã hội với nhiều ưu điểm).
6. Các hiểm họa đạo đức trong chính sách phúc lợi
Con người có xu hướng đưa ra các lựa chọn chắc chắn, tránh rủi ro và không muốn rơi vào cảm giác bị thua thiệt. Tuy nhiên, ngưỡng phòng tránh rủi ro của mỗi người có thể khác nhau. Trên thực tế, có nhiều tình huống rủi ro trong cuộc sống: con người cần có bảo hiểm rủi ro trước tai nạn, thảm hoạ thiên nhiên, thất nghiệp, bị trộm cướp. Bảo hiểm rủi ro là để phân tán rủi ro lên diện rộng; do vậy, làm tăng lợi ích cho người được bảo hiểm: có khả năng một vài người gặp rủi ro nhưng hiếm khi tất cả mọi người đều gặp rủi ro cùng lúc; do đó, đây là một cơ sở quan trọng của nhà nước phúc lợi không chỉ ở Thụy Điểm mà ở nhiều nước. Tâm lý phòng ngừa rủi ro chính là nguyên nhân dẫn tới sự hình thành của các thị trường bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm tính toán mức thu vào cao hơn mức chi trả, trong khi đó, nhà nước phúc lợi có thể được xem như một hình thức bảo hiểm cho người dân.
Trong quá trình người dân trả thuế để được trả bảo hiểm thông qua các dạng thức như bảo trợ xã hội, các xã hội Bắc Âu có lợi thế là bảo đảm lâu dài, phân bổ cho số đông, ổn định xã hội, toàn diện (do bắt buộc); nhà nước là định chế xử lý “lựa chọn đối nghịch” tốt nhất; mặt trái là ứng phó với “hiểm hoạ đạo đức” kém hiệu quả nhất do là quy mô lớn nên không nắm rõ từng hoàn cảnh, bên cạnh đó là tình trạng ít cạnh tranh. Để đối sánh, mô hình của Mỹ và một số nước có điểm yếu lớn nhất là xử lý lựa chọn đối nghịch do giao dịch bảo hiểm là tự nguyện nhưng xử lý hiểm hoạ đạo đức khá tốt (mặc dù không như mô hình bảo thủ truyền thống dựa trên cơ sở gia đình); thị trường có thể làm khách hàng hài lòng vì cạnh tranh lẫn nhau; các công ty bảo hiểm có thể cung ứng nhiều giải pháp sáng tạo; điểm yếu của mô hình Đức và một số nước Trung Âu là các gia đình hoàn cảnh không giống nhau, quy mô nhỏ nên không phân tán rủi ro hiệu quả; nhưng xử lý hiểm hoạ đạo đức tốt nhất vì mọi người trong gia đình hiểu nhau.
Về trường hợp của Thụy Điển, hiểm hoạ đạo đức là người lao động có thể lựa chọn nghỉ hưu sớm kèm theo tuổi thọ tăng lên, là vấn đề tồn tại trong một thời gian dài: xu hướng là già hóa dân số và tuổi nghỉ hưu giảm sớm lên, với phụ nữ có thời điểm, thời gian lương hưu là 20 năm, tác động đến quỹ lương hưu; tuy nhiên, sau đó Thụy Điển ban hành chính sách lương hưu mới: cho phép người lao động nghỉ hưu tuỳ ý nhưng nếu nghỉ hưu sớm sẽ nhận mức lương hưu ít hơn nhiều; trong khi đó, mức lương hưu không được công bố trước mà tính toán dựa trên mức độ đóng góp của cá nhân cho hệ thống chia cho tuổi còn lại. Càng đóng góp nhiều càng tốt cho lương hưu (việc chuyển sang hệ thống mới có thời gian quá độ là 17 năm, để bảo đảm tính khả thi về chính trị). Thụy Điển quy định tuổi nghỉ hưu tối thiểu là 61 và không quy định tuổi trần nghỉ hưu tối đa, mức lương và mức độ tham gia công việc trên cơ sở thoả thuận, và làm việc càng lâu thì mức lương hưu càng cao.
![]() |
Đoàn chụp ảnh lưu niệm trước Toà nhà Đại học Uppsala. |
7. Chính sách gia đình của Thụy Điển
Mô hình gia đình điển hình ở Thuỵ Điển, bắt đầu phổ biến từ thập niên 1970 của thế kỷ trước, là cả hai vợ chồng đều đi làm và đều trông con (dual earner, dual career), khác với mô hình bảo thủ truyền thống: đàn ông kiếm tiền, đóng vai trò trụ cột trong gia đình (phổ biến ở Anh, Đức và Thụy Điển trước đây).
Về chính sách chăm sóc trẻ em, nhà nước hỗ trợ dịch vụ chăm sóc trẻ em từ 1 tuổi trở lên để bố mẹ có thể đi làm, đi học, tìm việc (tương tự như vậy ở Hàn Quốc): con đầu tiên: 3% thu nhập của bố mẹ, con thứ hai: 2%, thứ 3: 1%, thứ 4: miễn phí; trong khi Mỹ khoảng 50% mức lương trung bình; Hàn Quốc: hoàn toàn miễn phí . Tại Thụy Điển, bố mẹ chi trả khoảng 20% tổng chi phí nuôi dạy trẻ em; phần còn lại do chính quyền địa phương; Về chế độ nghỉ thai sản: tổng cộng 480 ngày cho đến lúc con 8 tuổi; được hưởng lương 80% trong 390 ngày với mức trần là hơn 47.000 kr (trong khi lương bình quân là 40.000 kr); khuyến khích bố nghỉ 3 tháng; bố mẹ có thể nghỉ chăm con ốm 120 ngày/năm cho đến lúc con 12 tuổi khi con ốm; mức trợ cấp cho trẻ em 1250 kr/tháng (tương đương với học phí nhà trẻ, mẫu giáo)
Về mặt lịch sử, thập niên 1930, Thụy Điển phải đối mặt cuộc khủng hoảng dân số (tăng trưởng dưới 2%); hai nhà khoa học Thuỵ Điển đã đề xuất điều chỉnh chính sách xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh và nuôi dạy con cái, khuyến khích mang thai tự nguyện; Đảng DCXH ủng hộ ý tưởng này và đã thắng cử nhờ việc lấy đây là chủ đề tranh cử chính. Sau khi thắng cử, Chính phủ Thụy Điển đã ban hành nhiều luật ủng hộ các gia đình có trẻ em, góp phần chặn đà giảm tăng. Mặc dù có các biện pháp kịp thời và mạnh mẽ, dân số của Thụy Điển vẫn chưa tăng trở lại ngay mà phải đến thập niên 1960-1980, dân số mới tăng cao hơn 2%, là mức cao hơn Ý, Đức, Anh, tạo các tác động tích cực về kinh tế xã hội. Tỷ lệ phụ nữ thất nghiệp giảm, việc tạo thêm thời gian nghỉ phép làm tình cảm, gắn bó giữa bố mẹ với con cái tăng lên, tạo tác động tích cực cho trẻ em, nhất là ở các gia đình khó khăn, kinh tế hộ gia đình cải thiện, an sinh tốt lên…chính sách chăm sóc trẻ em không chỉ là chính sách xã hội và còn là chính sách giáo dục - đầu tư xã hội cho tương lai.
8. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và kinh doanh tự do
Đây là nhóm nhỏ nhưng không nằm trong nhóm nào được thiết kế trong chính sách phúc lợi của Thụy Điển nên được tách ra, tuy vẫn nằm trong hệ thống trợ cấp thất nghiệp của nhà nước. Vai trò, nhiệm vụ của Quỹ trợ cấp thất nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và kinh doanh tự do (SMAA) là nhận ngân sách từ nhà nước (90%) và thực hiện việc trợ cấp. SMAA hoạt động, điều hành như một doanh nghiệp tư nhân (không được giữ lại lợi nhuận mà phải đầu tư lợi nhuận trở lại cho hội viên và hoạt động của tổ chức của mình). SMAA là 1 trong 24 quỹ bảo trợ thất nghiệp tại Thụy Điển.
Về quy trình để trở thành hội viên của SMAA, việc xem xét một ứng viên có đủ tiêu chuẩn hay không được tiến hành kỹ lưỡng, vừa nghiên cứu hồ sơ vừa nghiên cứu việc kinh doanh. SMAA cũng phải tính mức thu nhập trung bình của người nộp đơn để có cơ sở trợ cấp; người được trợ cấp phải thông tin về hoạt động của họ hàng tuần cho SMAA. Tiêu chí để được trợ cấp là phải làm việc tại Thụy Điển 6 tháng trong 12 tháng qua; và mỗi tháng làm không dưới 60h; hoặc làm việc 6 tháng liên tiếp trong 12 tháng; không ít hơn 40h, 420 tiếng cho 6 tháng.
9. Chính sách y tế của Thụy Điển
Xét về đặc điểm dân số, Thuỵ Điển có số lượng người cao tuổi trên 65 chiếm tỷ lệ lớn (14%); tuổi thọ 83,1% (trung bình châu Âu là 81,5%); tỷ lệ trẻ em chết sơ sinh 2.1/1000 so với trung bình châu Âu là 4,1; chất lượng cuộc sống cao, 76% có sức khoẻ tốt so với mặt bằng chung của châu Âu là 69%; mặc dù vậy vẫn có thể nâng cao hơn nữa. Thụy Điển dành 11% GDP cho chăm sóc y tế, là mức cao so với mặt bằng chung quốc tế.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển gần như hoàn toàn do nhà nước điều hành quản lý và chi trả. Trong đó có sự phân cấp rõ ràng giữa chính quyền trung ương, chính quyền vùng và cấp quận. Nguồn kinh phí của chính quyền vùng và địa phương chủ yếu đến từ thuế và kinh phí do chính quyền trung ương cấp. Giá trị của hệ thống y tế là bình đẳng xã hội, đoàn kết, chia sẻ trong toàn hệ thống, hoạch định chính sách công khai (khác biệt với cơ chế thị trường), toàn dân kiểm soát việc chi trả ngân sách cho y tế.
Chính phủ và các cơ quan trung ương: ban hành luật pháp, quy định, thảo luận với chính quyền vùng, địa phương; cung cấp nguồn tài chính và giám sát chất lượng. Đồng thời, chính sách y tế không quy định nhiều trong luật do các quy định của luật chủ yếu mở, mang tính khái quát. Chính sách y tế được quản lý chủ yếu bằng “luật mềm”, không ràng buộc, mang tính hướng dẫn. Các vùng có thể có quy định khác nhau; chính quyền trung ương có thể tham gia tác động thông qua các khoản tài trợ cho các vùng (ví dụ, như khi muốn thúc đẩy một phương pháp điều trị mới thì chỉ đầu tư cho hoạt động đó). Chính quyền vùng chịu trách nhiệm về việc cung cấp dịch vụ và tài chính y tế; quyền thu thuế và các cơ quan dân cử; có thể ký hợp đồng dịch vụ cho cơ sở y tế tư nhân. Chính quyền quận chịu trách nhiệm chăm sóc dài hạn với đối tượng chủ yếu là người già, người có bệnh lý tâm thần, quyền thu thuế và cơ quan dân cử, có thể ký hợp đồng dịch vụ cho cơ sở y tế tư nhân (có sự khác nhau giữa các vùng, giữa các quận)
10. Bài học kinh nghiệm
- Các nhà nước có mức độ phát triển trung bình có thể bắt tay xây dựng nhà nước phúc lợi như kinh nghiệm của Thụy Điển (là nước có mức thu nhập trung bình khoảng 4000 USD/người/năm vào năm 1930 khi bắt đầu thực hiện nhà nước phúc lợi.
- Nền kinh tế sẽ phát triển bền vững hơn nếu được thực hiện song song với một số nội dung phù hợp của mô hình nhà nước phúc lợi. Nhà nước phúc lợi không phải là gánh nặng đối với nền kinh tế mà ngược lại giúp nền kinh tế tăng trưởng lâu dài hơn, vượt qua khủng hoảng tốt hơn, hạn chế tối đa bất công, và tạo công bằng xã hội.
- Nhà nước phúc lợi không làm triệt tiêu đổi mới sáng tạo. Bằng chứng là Thụy Điển nằm trong số các quốc gia có chỉ số đổi mới sáng tạo hàng dầu thế giới với các công nghệ như Spotify, Elextrodux, Errikson, Ikea, H & M…. Chính sách phúc lợi cần đi kèm với phát triển kinh tế, kết hợp vai trò của Nhà nước, thị trường và gia đình, trong đó giáo dục là phương thức quan trọng và then chốt để giảm nghèo và phát triển bền vững.
- Chính sách phúc lợi toàn dân có ưu điểm là tạo ra công bằng, bình đẳng xã hội, không bỏ sót đối tượng, nhưng mặt trái là mức độ hỗ trợ có thể sẽ không đáng kể vì có tính dàn trải, khó giúp người nghèo khỏi hoàn cảnh khó khăn (là một mục tiêu quan trọng của chính sách xã hội). Đồng thời, hiểm hoạ đạo đức là sẽ có người ỷ lại. Như vậy, có thể nghiên cứu chính sách giáo dục, y tế theo cách tiếp cận toàn dân, còn cách tiếp cận chính sách theo nhóm đối tượng nên tập trung vào các vấn đề như thất nghiệp (ưu tiên những người dễ bị tổn thương nhất) hay nhà ở (dành cho những người không có khả năng mua nhà).
- Việt Nam ngày nay có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để thúc đẩy các chính sách phúc lợi so với Thụy Điển trước đây. Do vậy, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Thụy Điển để đẩy mạnh nhóm chính sách này trên cơ sở những thành công trong thời gian vừa qua, với sự kết hợp hài hoà giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế.
- Việc áp dụng mô hình của Thụy Điển hay của bất kỳ nhóm nước nào khác vào hoàn cảnh Việt Nam cần được thực hiện một cách thận trọng, có chọn lọc do điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội, đặc thù hệ thống thể chế chính trị khác nhau. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện lý luận về mô hình nhà nước phúc lợi cũng đặt ra yêu cầu cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu./.
------------------------
Nguồn: Nội dung tài liệu, báo cáo của Đoàn cán bộ lãnh đạo đi bồi dưỡng ngắn hạn tại Thụy Điển theo Quyết định số 53-QĐ/BCĐ ngày 28/11/2024 của Ban Chỉ đạo thực hiện Kết luận số 39/KL-TW.
TS Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (Bộ Nội vụ)
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục