Phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền về đảm bảo dịch vụ công là việc phân chia quyền lực nhà nước giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có nhiệm vụ, quyền hạn đối với dịch vụ công, hạn chế việc can thiệp vào nhiệm vụ, quyền hạn của nhau, nhưng cấp trên vẫn có thể thực hiện việc kiểm soát cấp dưới theo quy định của pháp luật. Để thực hiện tốt hơn nữa việc phân định thẩm quyền đảm bảo dịch vụ công, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện phân cấp phân quyền tốt hơn, xã hội hóa cung cấp dịch vụ công, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như hoàn thiện cách thức quản lý về dịch vụ công.
Phân định thẩm quyền về đảm bảo dịch vụ công. |
Dịch vụ công
Các nhà nghiên cứu cho rằng, dịch vụ công1 là những hàng hoá, dịch vụ mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng (theo nghĩa rộng). Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, toà án… cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng. Trong thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước, dịch vụ công được hiểu một cách cụ thể hơn, là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng (theo nghĩa hẹp).
Dịch vụ công có nhưng đặc điểm cơ bản như2: 1) Dịch vụ công có thể do Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền cho tư nhân thực hiện nhưng vẫn đảm quyền và lợi ích công cộng; 2) Đối với nguồn kinh phí thực hiện dịch vụ công sử dụng ngân sách chi thường xuyên được quy định theo Luật Ngân sách nhà nước (kinh phí thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công của các bộ, cơ quan trung ương từ nguồn ngân sách trung ương; kinh phí thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công của địa phương từ nguồn ngân sách địa phương); 3) Dịch vụ công đem đến các lợi ích đáp ứng nhu cầu thiết yếu, tối thiểu cho xã hội, nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội phát triển bình đẳng, ổn định.
Thông thường, người ta chia dịch vụ công làm 3 loại chính, gồm dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích. Trong đó: 1) Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý hoặc dưới hình thức thông báo kết quả thực hiện trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. 2) Dịch vụ sự nghiệp công là dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo; giáo dục nghề nghiệp; y tế - dân số; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin và truyền thông; khoa học và công nghệ; các hoạt động kinh tế và lĩnh vực khác. 3) Sản phẩm, dịch vụ công ích là sản phẩm, dịch vụ mà việc sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ này theo cơ chế thị trường khó có khả năng bù đắp chi phí hoặc sản phẩm, dịch vụ có tính chất đặc thù; được Nhà nước trợ giá phần chênh lệch giữa giá tiêu thụ, giá sản phẩm dịch vụ theo quy định của Nhà nước hoặc phần chênh lệch giữa số tiền do người được hưởng sản phẩm, dịch vụ công ích thanh toán theo quy định của Nhà nước, với chi phí hợp lý của nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích để sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng (hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật chuyên ngành nếu có).
Phân định thẩm quyền về dịch vụ công
Trong hoạt động quản lý nhà nước, phân định thẩm quyền được xác định là các hoạt động thực hiện phân quyền, phân cấp để xác định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền các cấp, phát huy tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương để bảo đảm thực hiện tốt chức năng và vai trò quản lý nhà nước trên địa bàn, từ đó bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương được thực hiện dưới hai hình thức là phân quyền và phân cấp.
Phân quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương (phân quyền theo chiều dọc) là phân chia quyền lực nhà nước giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có nhiệm vụ, quyền hạn riêng của mình, các cấp hạn chế việc can thiệp vào nhiệm vụ, quyền hạn của nhau, nhưng cấp trên vẫn có thể thực hiện việc kiểm soát cấp dưới theo quy định của pháp luật. Phân cấp có thể được hiểu là sự chuyển giao quyền quyết định trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước từ chính quyền cấp trên xuống cho chính quyền cấp dưới trong hệ thống hành chính nhà nước3. Phân cấp thường chỉ diễn ra trong hoạt động quản lý hành chính giữa các cấp hành chính. Như vậy, chính quyền cấp trên cũng phải chịu trách nhiệm, ngay cả khi đã thực hiện phân cấp cho chính quyền cấp dưới.
Trong quản lý dịch vụ công, phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định như: 1) Cấp chính quyền nào gần dân nhất, có điều kiện phục vụ người dân tốt nhất thì nên trao quyền cho cấp đó thực hiện các dịch vụ công mang tính dân sinh. Chỉ khi cấp đó không thể làm được thì mới trao quyền cho cấp cao hơn; 2) Cấp nào có đầy đủ thông tin nhất để giải quyết vấn đề thì trao quyền quyết định cho cấp đó; 3) Trao quyền phải căn cứ vào khả năng thực tế, nhất là khả năng tài chính của chính quyền địa phương. Quyền quyết định phải được trao cho cấp có đủ năng lực thực thi4.
Danh mục các loại công việc, nhiệm vụ thường do chính quyền địa phương đảm nhận có thể bao gồm: 1) Các dịch vụ về xã hội (hỗ trợ phúc lợi; dịch vụ xã hội chăm sóc trẻ em; nhà ở xã hội; y tế); 2) Cầu cống và đường xá; chiếu sáng đường phố; vỉa hè; công viên và khu giải trí, thể dục, thể thao; thư viện; 3) Hệ thống cấp, thoát nước; (4) thu gom và xử lý rác thải/chất thải sinh hoạt; 5) Việc duy trì trật tự cộng đồng địa phương bằng lực lượng tuần tra địa phương (cảnh sát địa phương/cảnh sát cộng đồng); 6) Phòng cháy, chữa cháy; 7) Quy hoạch sử dụng đất địa phương/quy hoạch sử dụng đất của vùng; 8) Các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương... Đây đều là các công việc liên quan trực tiếp tới chất lượng sống của người dân địa phương; các vấn đề mang tính chất đặc thù, riêng có của địa phương và các vấn đề tuy của địa phương nhưng phát sinh từ việc thực hiện các nhiệm vụ chung của quốc gia có liên quan tới cộng đồng địa phương.
Phạm vi dịch vụ công không cố định mà tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia5. Đối với Canada, có 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế - xã hội (tạo việc làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, bảo hiểm xã hội,…). Ở Pháp, dịch vụ công được hiểu rộng, bao gồm các hoạt động phục vụ nhu cầu về tinh thần và sức khỏe của người dân (giáo dục, văn hóa, y tế, thể thao… thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân cư mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường… thường được coi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công bao gồm các hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch… mà cả hoạt động thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng… Còn ở Italia, dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.
Ở Việt Nam, dịch vụ công tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước, mà không bao gồm các chức năng công quyền, như lập pháp, hành pháp, tư pháp, ngoại giao,… qua đó nhấn mạnh vai trò chủ thể của Nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định: “Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực,…”. Điều này không có nghĩa là nhà nước độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà trái lại nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung ứng một phần của một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước,… cho khu vực phi nhà nước thực hiện. Rõ ràng, phạm vi các dịch vụ công có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội. Khi Nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.
Về dịch vụ công ở Nhật Bản6, quản lý dịch vụ công ở Nhật Bản là xu hướng “trao quyền” - Nhà nước chuyển giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công cho chính quyền địa phương, khu vực tư nhân cũng như khu vực phi lợi nhuận. Trên thực tế, ngoại trừ các dịch vụ hành chính công gắn liền với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý của Nhà nước do chính quyền địa phương trực tiếp cung ứng, như đăng ký, cấp phép, quản lý dân cư, an sinh xã hội..., nhiều dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích đã được tư nhân hóa mạnh mẽ.
Trong lĩnh vực vận tải đường sắt, năm 1987, Chính phủ Nhật Bản thực hiện giải pháp tư nhân hóa nhằm khuyến khích cạnh tranh và giảm chi phí hoạt động, qua đó từng bước khôi phục sức sống của ngành đường sắt nhờ đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ. Thị trường điện ở Nhật Bản đã trở nên cạnh tranh đầy đủ ở tất cả các cấp độ sản xuất, truyền tải và đặc biệt là bán lẻ từ năm 2016. Hiện tại, người tiêu dùng Nhật Bản có thể lựa chọn mua điện trong số hơn 600 đơn vị kinh doanh bán lẻ điện. Trong lĩnh vực cấp nước, năm 2018, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua Đạo luật Cấp nước sửa đổi, theo đó đã mở đường cho việc tư nhân hóa, các nhà khai thác tư nhân phải niêm yết giá nước trong ngưỡng được pháp luật quy định, các địa phương cấp quyền điều hành dịch vụ nước sạch cho doanh nghiệp tư nhân trong thời gian dài thông qua hợp đồng nhượng quyền. Chính quyền địa phương vẫn giữ quyền sở hữu kết cấu hạ tầng, có quyền tiến hành điều tra tại chỗ các công ty tư nhân, yêu cầu họ báo cáo tình hình tài chính và hủy quyền điều hành dịch vụ của các công ty này nếu cần thiết. Về phương thức quản lý dịch vụ công, Nhật Bản nổi tiếng với mô hình quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management - TQM). Các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công đa phần tự chủ ngân sách, có cơ chế chi trả thù lao linh hoạt (có thể trả theo tuần, tháng, năm), tự xây dựng chế độ tiền lương (thường phiên từ tiền lương công chức sang). Đối với đơn vị lớn, bộ trưởng (bộ chủ quản) bổ nhiệm người đứng đầu và chánh thanh tra.
Về dịch vụ công ở Singapore, từ những năm 1980, Singapore bắt đầu tái cơ cấu, cổ phần hóa các bệnh viện công, có các ban quản lý độc lập với quy định chặt chẽ về tài chính và tiêu chuẩn dịch vụ. Chính phủ áp dụng hình thức thuê khoán để tiết kiệm ngân sách và giảm biên chế trong các lĩnh vực dịch vụ, như: vệ sinh và quản lý cơ sở, thanh tra môi trường, cảnh sát giao thông...; thành lập ban quản lý khu vực dân cư nhằm thúc đẩy tự quản cộng đồng. Năm 1991, thực hiện chương trình đại cải cách trong hành chính nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng công vụ, xây dựng và phát triển chính phủ điện tử. Năm 1995, ra mắt Dịch vụ công thế kỷ XXI (viết tắt là PS21) với hai mục tiêu cơ bản: giáo dục thái độ dịch vụ và khuyến khích sự thay đổi, áp dụng công cụ và kỹ thuật quản lý hiện đại, chú trọng tinh thần và phúc lợi công chức. PS21 khuyến khích tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của công chức với quy định hằng năm, mỗi công chức phải có tối thiểu 01 sáng kiến hoặc đề xuất cải thiện các dịch vụ hành chính công, qua đó giúp tiết kiệm được gần 5 tỷ đô la Singapore. Năm 2004, Singapore đề ra chính sách “không có cửa nào là sai cả”, theo đó, trong trường hợp cơ quan nhà nước nhận được thông tin phản hồi không đúng với chức năng, nhiệm vụ của mình thì sẽ xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết và liên hệ với người gửi ý kiến, nếu liên quan đến nhiều cơ quan thì cơ quan tiếp nhận phải chủ trì phối hợp với các cơ quan khác để đưa ra câu trả lời chung. Cách tiếp cận này dựa trên tinh thần phục vụ, đặt công dân vào vị trí khách hàng và thúc đẩy trách nhiệm của công chức.
Thực trạng phân định thẩm quyền về đảm bảo dịch vụ công ở Việt Nam
Việc phân định thẩm quyền về đảm bảo cung cấp dịch vụ công hiện nay đã được chú trọng tăng cường trong hoạt động của các cấp chính quyền trung ương và địa phương. Những mặt mạnh thể hiện rõ ở các nội dung như: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ công ngày càng được hoàn thiện; từng bước thực hiện phân cấp, phân quyền về đảm bảo dịch vụ công, nhất là những công việc liên quan đến dân sinh; thực hiện xã hội hóa cung ứng dịch vụ công với nhiều hình thức như: Nhà nước và nhân dân cùng làm, thực hiện liên doanh, liên kết; hợp đồng với các nhà cung cấp dịch vụ ngoài Nhà nước; tạo điều kiện để các tổ chức ngoài Nhà nước cùng tham gia cung ứng dịch vụ; phát triển mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên, trong hoạt động cung cấp dịch vụ công, đảm bảo dịch vụ công còn gặp những hạn chế, bất cập tập trung vào các vấn đề sau: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ công chưa được hoàn thiện đầy đủ, đồng bộ; việc phân cấp, phân quyền về đảm bảo dịch vụ công còn chậm, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong lĩnh vực này còn có những hạn chế, bất cập; thực hiện đa dạng hóa phương thức quản lý đối với cung ứng dịch vụ công của các đơn vị thuộc sở hữu nhà nước chưa được chú trọng, đẩy mạnh. Còn chậm trong thực hiện xã hội hóa cung ứng dịch vụ công với nhiều hình thức; việc kiểm soát chất lượng dịch vụ công khi thực hiện tư nhân hóa, cổ phần hóa chưa được thực hiện thường xuyên, chặt chẽ; việc quản lý cung ứng dịch vụ hành chính công chưa được đầu tư đúng mức lấy người dân làm trung tâm, phục vụ theo yêu cầu.
Tại Hội thảo “Phát triển các mô hình kinh doanh mới trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì tổ chức trực tiếp tại Hà Nội (13/11/2021), chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc mang các dịch vụ lên môi trường trực tuyến, dẫn chứng việc Cổng Dịch vụ công quốc gia đã chuẩn hóa và tích hợp được hơn 2.000 dịch vụ, và đưa ra nhận định: “Ở chừng mực nào đó, cơ sở hạ tầng số ở Việt Nam đã có sự tiến bộ. Tuy nhiên, sự tiến bộ này chưa đủ để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, tăng trưởng nền kinh tế số. Có thể thấy là, trong 14 nền kinh tế khu vực APAC, chỉ số sẵn sàng về điện toán đám mây của Việt Nam vẫn thấp nhất trong 3 năm vừa qua. Do vậy, Việt Nam phải có cơ sở hạ tầng tốt hơn, cần đầu tư vào lĩnh vực này để hướng tới tương lai”7
Tại buổi làm việc giữa Thủ tướng và Thành phố Hồ Chí Minh8 ngày 16/4/2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, năm 2022, Thành phố có 584 văn bản hỏi ý kiến và Bộ đã có 604 văn bản trả lời. Tuy nhiên, hầu hết các vấn đề được hỏi thuộc thẩm quyền của Thành phố Hồ Chí Minh. "Đây là điều rất vô lý, cho thấy chúng ta sợ hoặc đùn đẩy nhau. Trung bình mỗi ngày, Bộ phải trả lời cho Thành phố hai văn bản, mà chúng tôi còn trăm nghìn việc khác, trong khi trách nhiệm đã được phân công, phân cấp". Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, qua phân tích, các văn bản xin ý kiến Bộ Kế hoạch và Đầu tư thuộc 4 nhóm vấn đề. Cụ thể, nhóm 1 là văn bản hỏi về các vấn đề thực tiễn của Thành phố phát sinh nhưng quy định pháp luật chưa có. Nhóm 2 là những vấn đề đã có quy định nhưng còn sự khác nhau giữa luật này và luật kia. Nhóm 3 là đã có quy định nhưng cách hiểu còn khác nhau. Nhóm 4 là đã có quy định rõ nhưng còn nhiều điểm chưa chắc chắn nên hỏi. Ông nói rõ: Những vấn đề ở nhóm 4 là sợ không dám làm là trúng, còn 3 nhóm kia là phải hỏi, trong hơn 600 văn bản trả lời của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có rất nhiều nội dung trả lời không rõ, căn cứ vào trả lời đó cũng không biết sao mà làm.
Ở thành phố Hà Nội, mô hình chính quyền đô thị đã được đổi mới theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị (không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) phường) nhưng vẫn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nặng về thủ tục qua các cấp chính quyền quận, huyện, thị xã, trong khi Hà Nội là đô thị đặc biệt, có tốc độ đô thị hóa cao, yêu cầu cần có sự quản lý thống nhất, sự điều hành một cách nhanh chóng, xuyên suốt trên toàn địa bàn Thủ đô; vẫn còn tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của một số sở, ngành, đơn vị thuộc thành phố9 .
Hiện nay, HĐND thành phố Hà Nội vẫn chưa đủ thẩm quyền, chưa được phân cấp những vấn đề quan trọng; chưa có thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án hạng A, các dự án cấp bách trong quá trình đô thị hóa; các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức một số ngành chuyên môn cho phù hợp với điều kiện của thành phố; các vấn đề liên quan đến huy động nguồn lực cho phát triển. Hội đồng nhân dân ở cấp huyện và cấp xã về thực chất chưa có thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội trên địa bàn. Ủy ban nhân dân thành phố còn hạn chế về thẩm quyền trong việc quyết định nhiều vấn đề về tài chính, ngân sách, quy hoạch, đầu tư xây dựng... Việc tổ chức cung ứng một số dịch vụ hành chính công, sự nghiệp công theo quy định của pháp luật còn có những hạn chế, bất hợp lý; chậm được khắc phục, quy trình, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, gây trở ngại cho người dân, doanh nghiệp.
Qua rà soát quy định chức năng nhiệm vụ của các sở, ngành thành phố còn có sự chồng chéo như10: giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Tài chính về chủ trì tổng hợp, phân tích tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư, đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư, quyết toán vốn đầu tư của thành phố; giữa Sở Lao động - Thương binh và Xã hội với Sở Xây dựng và Sở Quy hoạch - Kiến trúc về nhiệm vụ quản lý nghĩa trang; giữa Sở Công Thương với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về nhiệm vụ quản lý làng nghề và ngành nghề nông thôn, thương mại nông sản;…).
Giải pháp hoàn thiện phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và UBND các cấp về đảm bảo dịch vụ công
Một là, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ công, trong đó, Nhà nước giữ vai trò quan trọng nhất trong bảo đảm cung cấp dịch vụ công, nhưng không nhất thiết phải là người trực tiếp cung cấp tất cả các dịch vụ đó. Vai trò của Nhà nước cần thể hiện rõ hơn trong đẩy mạnh quản lý cung ứng dịch vụ công bằng luật pháp, chính sách và các biện pháp mang tính hỗ trợ, khuyến khích. Nhà nước tạo lập cơ sở pháp lý cho quản lý dịch vụ công, bao gồm cung ứng dịch vụ công và kiểm tra, giám sát việc tuân thủ chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này. Từng bước hoàn thiện các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền đối với lĩnh vực dịch vụ công làm cơ sở xác định phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương.
Hai là, thực hiện phân cấp, phân quyền trong đảm bảo dịch vụ công tại các cấp, hướng tới cấp chính quyền nào gần dân nhất, có điều kiện phục vụ người dân tốt nhất thì nên trao quyền cho cấp đó thực hiện các dịch vụ công mang tính dân sinh. Trao quyền phải căn cứ vào khả năng thực tế, nhất là khả năng tài chính. Quyền quyết định phải được trao cho cấp có đủ năng lực thực tiễn. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức và đội ngũ viên chức thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công. Thông qua các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, hội thảo, diễn đàn tăng cường nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện cung cấp dịch vụ công.
Ba là, đa dạng hóa phương thức quản lý đối với cung ứng dịch vụ công của các đơn vị thuộc sở hữu Nhà nước. Nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công đối với những dịch vụ do Nhà nước trực tiếp cung ứng, xu hướng hiện nay là áp dụng kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân như: quản lý theo mục tiêu, quản lý theo kết quả, quản lý chất lượng toàn bộ, quản lý theo hợp đồng... với những biện pháp cụ thể như: chuyển từ cấp phát ngân sách theo đầu vào sang hỗ trợ kinh phí theo đầu ra; giao kế hoạch, đặt hàng và thanh toán dịch vụ theo đơn đặt hàng với đơn vị cung ứng dịch vụ công; phân cấp quản lý và cung ứng dịch vụ công cho chính quyền địa phương.
Thực hiện xã hội hóa cung ứng dịch vụ công với nhiều hình thức: Nhà nước và nhân dân cùng phối hợp cung ứng dịch vụ công dưới hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác với các tổ chức tư nhân; Nhà nước ký kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ với các nhà cung cấp dịch vụ ngoài Nhà nước; nhà nước tạo điều kiện để các tổ chức ngoài Nhà nước cùng tham gia cung ứng dịch vụ. Một số dịch vụ công được nhiều nước tiến hành xã hội hóa là giao thông công cộng và bưu chính viễn thông. Trong những lĩnh vực dịch vụ công có tính truyền thống của khu vực Nhà nước như điện lực, nước sạch, quá trình xã hội hóa cũng đã diễn ra với những cấp độ khác nhau ở nhiều nước, dù chậm hơn so với các lĩnh vực dịch vụ khác. Lựa chọn lĩnh vực dịch vụ công để tư nhân hóa, cổ phần hóa. Nhìn chung khu vực tư nhân tham gia ngày càng nhiều vào cung ứng dịch vụ công, nhưng Nhà nước vẫn phải trực tiếp cung ứng một số loại dịch vụ công quan trọng, thiết yếu, liên quan đến lợi ích cộng đồng (như cứu hỏa, phòng, chống thiên tai...); đáp ứng các mục tiêu ưu tiên, phục vụ các đối tượng cần sự hỗ trợ (như giáo dục phổ cập, chăm sóc sức khỏe ban đầu...); những dịch vụ đặc thù chỉ có Nhà nước mới có thể thực hiện (thuộc nhóm dịch vụ hành chính công như thủ tục đăng ký, cấp phép, các loại giấy xác nhận, chứng thực...). Tư nhân hóa, cổ phần hóa dịch vụ công chỉ nên được thực hiện với những lĩnh vực dịch vụ có khả năng tính đủ chi phí vào giá dịch vụ, có tích lũy hợp lý cho nhà cung cấp mà vẫn nằm trong khả năng chi trả của đại bộ phận người dân.
Bốn là, về kiểm soát chất lượng dịch vụ công khi thực hiện tư nhân hóa, cổ phần hóa. Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ và khắc phục những bất cập của thị trường. Phân biệt dịch vụ độc quyền và dịch vụ có cạnh tranh để lựa chọn lĩnh vực tư nhân hóa, cổ phần hóa. Những dịch vụ như nước sạch, hạ tầng đường bộ, cảng biển, sân bay, đường sắt có tính độc quyền tự nhiên rất cao do khách hàng khó có thể thay đổi bên cung cấp dịch vụ và cũng khó có thể có nhiều bên cùng tham gia cung cấp dịch vụ bởi sự lãng phí không cần thiết. Đối với những lĩnh vực mang tính chất độc quyền tự nhiên này, khi thực hiện tư nhân hóa, cổ phần hóa, cần có các biện pháp quản lý mạnh mẽ hơn lĩnh vực đã có thị trường cạnh tranh, nhằm bảo đảm mức giá dịch vụ hợp lý và khả năng tiếp cận dịch vụ của người dân.
Năm là, việc đổi mới quản lý cung ứng dịch vụ hành chính công hướng tới làm cho chính quyền các cấp gần dân hơn, tạo sự thuận tiện cho người dân, bảo đảm công khai, minh bạch. Xây dựng tiêu chuẩn về cung ứng dịch vụ hành chính công, coi công dân là khách hàng; cung ứng dịch vụ theo yêu cầu và chú ý đánh giá kết quả hoạt động theo đầu ra, đánh giá mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp.
Phát triển chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số được triển khai thông qua những chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, dựa trên sự chỉ đạo thống nhất của chính phủ, sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước và sự hiện diện của một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính cho việc phát triển dịch vụ công trực tuyến. Các dịch vụ hành chính công trực tuyến được thiết kế theo hướng lấy người sử dụng làm trọng tâm, đồng thời xây dựng các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả dịch vụ công trực tuyến.
Thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành về đảm bảo dịch vụ công nhằm thực hiện tổng hợp, báo cáo, xem xét phương hướng giải quyết các vấn đề trong cung ứng dịch vụ công, giúp lãnh đạo, quản lý các cấp trong xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, nhận diện vấn đề, phương án giải quyết vấn đề trong đảm bảo dịch vụ công./.
-------------------------
Ghi chú
1. https://luatvietnam.vn/linh-vuc-khac/dich-vu-cong-la-gi-883-95951-article.html#:~:text=D%E1%BB%8Bch% 20v%E1%BB%A5%20c%C3%B4ng%20l%C3%A0%20kh%C3%A1i,v%C3%A0%20mang%20t%C3%ADnh%20c%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BB%93ng.
2. Học viện Hành chính Quốc gia (2022), Tài liệu bồi dưỡng đối với công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương, Nxb Bách khoa Hà Nội.
3. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
4. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211444
5. https://luatduonggia.vn/dich-vu-cong-la-gi-dac-diem-va-cac-hinh-thuc-cung-ung-dich-vu-cong/
6. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/5074-quan-ly-nha-nuoc-ve-dich-vu-cong-o-mot-so-quoc-gia-va-gia-tri-tham-khao.html
7. https://vietnamnet.vn/wb-viet-nam-da-co-nhung-tien-bo-dang-ke-trong-viec-dua-dich-vu-len-moi-truongonline-i397404.html
8. https://thanhnien.vn/ong-phan-van-mai-noi-ve-viec-tphcm-gui-584-van-ban-xin-y-kien-bo-kh-dt-185230511115928865.htm
9. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211444
10. Đề tài khoa học cấp thành phố Hà Nội 2021: “Nghiên cứu đề xuất phân cấp, phân quyền ở thành phố Hà Nội”. Xem https://nsti.vista.gov.vn/projects/kqnv/nghien-cuu-de-xuat-phan-cap-phan-quyen-o-thanh-pho-ha-noi-117451.html
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
3. Bộ Nội vụ (2022), Tài liệu bồi dưỡng đối với công chức ngạch chuyên viên chính, Nxb Bách khoa Hà Nội.
4. Học viện Hành chính Quốc gia (2023), Tài liệu bồi dưỡng đối với công chức ngạch chuyên viên, Nxb Bách khoa Hà Nội.
5. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211444
6. https://luatvietnam.vn/linh-vuc-khac/dich-vu-cong-la-gi-883-95951-article.html#:~:text=D%E1%BB%8Bch% 20v%E1%BB%A5%20c%C3%B4ng%20l%C3%A0%20kh%C3%A1i,v%C3%A0%20mang%20t%C3%ADnh%20c%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BB%93ng.
7.https://vietnamnet.vn/wb-viet-nam-da-co-nhung-tien-bo-dang-ke-trong-viec-dua-dich-vu-len-moi-truongonline-i397404.html
8.https://thanhnien.vn/ong-phan-van-mai-noi-ve-viec-tphcm-gui-584-van-ban-xin-y-kien-bo-kh-dt-185230511115928865.htm
9.https://nsti.vista.gov.vn/projects/kqnv/nghien-cuu-de-xuat-phan-cap-phan-quyen-o-thanh-pho-ha-noi117451.html
PGS.TS Ngô Thành Can, Học viện Hành chính Quốc gia
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục