1. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa những kinh nghiệm xây dựng nhà nước trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lý luận về nhà nước pháp quyền của một số nước tư bản điển hình, sáng lập nhà nước kiểu mới ở Việt Nam
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý về xây dựng nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của các nhà nước thân dân trong thời kỳ phong kiến hưng thịnh của lịch sử dân tộc như truyền thống đoàn kết, tư tưởng lấy dân làm gốc thời Lý - Trần; chú trọng luật pháp và đạo đức trong xây dựng bộ máy nhà nước thời Lê trung hưng.
Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu: intenet |
Trong hành trình tìm đường cứu nước, qua nghiên cứu chế độ nhà nước ở Anh, Pháp, Mỹ.v.v… những năm đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện ra chính quyền của những nước đó vẫn ở trong tay một số ít người. Vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản. Tuy cách mạng tư sản Mỹ thành công đã hơn 150 năm, nhưng tầng lớp công - nông vẫn cực khổ. Chế độ nhà nước tư sản Mỹ hoặc Pháp "Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hãy còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy"(1). Đứng về phía nhân dân, Người xác định: cách mạng Việt Nam sau khi thành công sẽ không thiết lập loại nhà nước này. Khi xây dựng nhà nước kiểu mới, Người đã tham khảo những yếu tố tích cực, hợp lý của tư tưởng về nhà nước và pháp luật của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 và bản Hiến pháp nước Mỹ, trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 của Pháp và tác phẩm Tinh thần pháp luật của Mông-téc-xki-ơ (1689-1755), một nhà tư tưởng Pháp tiêu biểu về lý luận nhà nước pháp quyền (tác phẩm tiếng Pháp đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dịch ra tiếng Việt là Tinh thần pháp luật của Mông-téc-xki-ơ). Trong xây dựng Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á và xây dựng chính quyền mới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh hoa tư tưởng nhà nước pháp quyền của các chế độ khác nhau. Xây dựng Hiến pháp 1959, Người tiếp tục khẳng định: "Chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ tình hình của nước ta, nghiên cứu lại bản Hiến pháp 1946, phải tham khảo hiến pháp của các nước bạn và một số nước tư bản có tính chất điển hình"(2) để xây dựng bộ máy Nhà nước ta.
Năm 1923, khi đến Liên Xô, Người đã nghiên cứu kỹ mô hình nhà nước kiểu mới: "Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng"(3). Đó là Nhà nước Xô viết ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Về thực chất, đây là một hình thức nhà nước phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Người quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười với kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa đó. Tuy vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không sao chép máy móc hình thức nhà nước xô viết mà vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất nền dân chủ vô sản, về chủ thể quyền lực phải thuộc về đa số, về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước xã hội chủ nghĩa để sáng lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam; một nhà nước pháp quyền trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Sau khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tư tưởng xây dựng một nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"(4). Mọi quyền hành nhà nước đều thuộc về nhân dân, bắt nguồn từ nhân dân, nhân dân tổ chức ra quyền lực nhà nước từ xã đến trung ương là đặc điểm quan trọng đầu tiên của một nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Nhà nước kiểu mới sinh ra để phục vụ nhân dân, chứ không phải nhân dân phục vụ nhà nước.
Điều 1 Hiến pháp 1946 khẳng định: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo"(5). Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ. Công việc xây dựng, bảo vệ đất nước là do nhân dân làm. Nhà nước của dân hàm ý dân có quyền giám sát hoạt động của nhà nước. Nhà nước của dân phải tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở: "Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm"(6). Trước đây trong chế độ phong kiến, vua là chủ, nay chế độ dân chủ, nhà nước của dân thì dân là chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ rất giản dị mà sâu sắc: "Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải làm quan cách mạng"(7). Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Nhà nước vì dân, phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, cho nên cán bộ, công chức (CBCC) từ trung ương đến địa phương đều phải là công bộc phục vụ nhân dân với tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người yêu cầu nhà nước và CBCC: "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh"(8). Điều 32 Hiến pháp 1946 khẳng định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết". Trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp trong thế giới hiện đại, đã được Người đề ra khá sớm ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng quyết định của nhà nước mà không hợp với dân chúng thì phải sửa chữa. Dựa vào ý kiến của nhân dân mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của nhà nước. Nhân dân có quyền giám sát công việc của nhà nước. "Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi"(9). Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu và không tín nhiệm các quan chức Chính phủ. "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ"(10).
3. Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật
Có hợp hiến, nhà nước mới có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ. Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp dân chủ. Mặc dù gặp những khó khăn dồn dập do nạn đói, thù trong giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Đây là một cuộc phổ thông đầu phiếu tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được kể từ khi lật đổ ách thống trị thực dân, đã đưa ngay lực lượng chính trị của nhân dân lên cầm quyền một cách hợp hiến. Ngay sau khi Tổng tuyển cử thành công, Quốc hội được thành lập, ngày 09/11/1946, bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo đã ra đời, chính thức quy định các nguyên tắc tổ chức, hoạt động, hình thức và cơ cấu Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng về sự cần thiết xây dựng một nhà nước pháp quyền ở nước ta nảy sinh rất sớm ở Nguyễn Ái Quốc. Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản Yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được thể hiện rõ hơn khi Người diễn giải yêu sách đó trong Việt Nam yêu cầu ca. Ở điều thứ 7, Nguyễn Ái Quốc đòi nhà cầm quyền Pháp phải ban hành hiến pháp. Người khẳng định rõ trong xã hội: "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền"(11). "Trăm điều" ở đây có nghĩa là mọi mối quan hệ căn bản của xã hội đều phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Nhà nước phải hoạt động theo hiến pháp mới là nhà nước pháp quyền. Trên cương vị Chủ tịch nước đầu tiên, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Với những hoạt động quan trọng đó, Người đã khởi xướng xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo thực hiện quyền lực của nhân dân.
Mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Người rất coi trọng việc giáo dục pháp luật cho toàn dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
Người chú trọng dùng pháp luật ngăn chặn tình trạng biến quyền lực của dân thành quyền lực cá nhân, ngăn chặn bệnh quan liêu, nạn tham nhũng. Hiến pháp 1946 quy định những quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn, điều đó phù hợp với yêu cầu tập trung quyền lực để chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thử thách "ngàn cân treo sợi tóc"… Khi hòa bình được lập lại trên một nửa đất nước và chuẩn bị cho bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, trong Hiến pháp 1959 do chính Người chủ trì soạn thảo, quyền của Chủ tịch nước được thu hẹp lại, cùng với việc mở rộng quyền lực của Quốc hội. Thực tế cho thấy trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nêu tấm gương sáng về tư tưởng và phong cách làm việc dân chủ, khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của nhà nước và CBCC để đảm bảo nhà nước phục vụ nhân dân.
4. Kết hợp pháp luật và đạo đức trong hoạt động nhà nước, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng vai trò của pháp luật, chỉ đạo khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Song, Người không khi nào chỉ đề cao một chiều vai trò của pháp luật mà bỏ qua vai trò điều chỉnh hành vi con người của các nhân tố khác, đặc biệt là nhân tố đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng, điều hành bộ máy nhà nước. Người luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức cho CBCC, nhân dân nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Ngày 27/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26/01/1946, Người ký "Quốc lệnh" khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Cuối năm 1945, khi giao việc cho đồng chí Lê Giản phụ trách ngành Công an, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn người làm công tác tư pháp, bảo vệ pháp luật phải "Thiết diện vô tư" trong công việc. Nghĩa là phải có tinh thần kiên quyết, cứng rắn đối với những tội ác chống lại nhân dân và cách mạng. Không được mềm lòng, nhân nhượng hoặc thiên vị với bất cứ ai vi phạm pháp luật. Trên cơ sở dân chủ, pháp luật và đạo đức, giải quyết mọi việc công bằng, công minh, chính trực. Điều đó cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống pháp trị và đức trị trong thực tế xây dựng, điều hành hoạt động của Nhà nước ta. Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, xây phải đi đôi với chống. Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân, đi đôi với việc dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hoá đạo đức. Cùng với việc đề cao, tôn vinh đạo lý làm người, Chủ tịch Hồ Chí Minh cương quyết dùng pháp trị. "Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì"(12). Người coi chống tham ô, lãng phí, quan liêu, như chống "giặc nội xâm" để làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Bởi sức mạnh, hiệu quả của nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, trong sáng về đạo đức của đội ngũ CBCC.
Để xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Người chủ trương xây dựng một nền hành chính hiện đại, thống nhất từ trung ương đến địa phương, với đội ngũ CBCC vừa có đức vừa có tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý mối quan hệ giữa chính quyền các cấp, bởi hiệu quả hoạt động của nhà nước tùy thuộc ở việc xử lý mối quan hệ đó. Việc phân cấp thẩm quyền giữa trung ương và địa phương cần phải được tiến hành theo pháp luật. Trung ương tập trung quyền lực là cần thiết, nhưng địa phương cũng cần được chủ động sáng tạo trong phạm vi pháp luật quy định. Việc tổ chức bộ máy nhà nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện linh hoạt, phù hợp trong từng giai đoạn và điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam, không máy móc, giáo điều.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tinh thần phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Người quyết định mở Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam; ký Sắc lệnh số 197 thành lập khoa Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam; ban hành Sắc lệnh số 188/SL ngày 29/5/1946 sửa đổi chế độ công chức và đặt các thang lương cho công chức; ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức Việt Nam... Người khởi xướng việc xây dựng hệ tiêu chuẩn cho đội ngũ CBCC với nguyên tắc vừa có đức, vừa có tài; tuyệt đối trung thành với cách mạng; hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ; có mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Thực hiện việc thi tuyển CBCC nhằm xây dựng một đội ngũ CBCC theo hướng chính quy, hiện đại, dân chủ, công bằng, công khai.
5. Xây dựng nhà nước có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính chất dân tộc và nhân dân rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong xã hội có giai cấp, không có nhà nước phi giai cấp. Sự khác nhau giữa các kiểu nhà nước là ở chỗ nhà nước đó của giai cấp nào, hoặc mang bản chất giai cấp nào. Ở nước ta, Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công lật đổ chế độ thực dân phong kiến và bộ máy nhà nước của nó, thì nhất định dẫn đến việc Đảng sẽ xây dựng chính quyền kiểu mới của xã hội mới theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác - Lê nin. Có nghĩa là việc xây dựng nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta từ năm 1945 cho đến nay là một tất yếu lịch sử.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II năm 1951, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam thông qua tại Đại hội II khẳng định rõ: "Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân"(13). Chính quyền đó là của nhân dân mang tính chất nhân dân, đồng thời có tính chất dân tộc sâu sắc. Bởi chính quyền mới đó là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhà nước đó luôn phát huy sức mạnh dân tộc trong công cuộc đấu tranh xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và tồn tại, phát triển trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc. Chính quyền nhà nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu luôn thực hiện đại đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc đúng đắn, có nhân tài ở cả Bắc - Trung - Nam. Chính cương của Đảng năm 1951 khẳng định: "Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo"(14). Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng đồng thời làm Chủ tịch nước cho nên từ trong tư tưởng đến hành động Người luôn coi việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước là một nhân tố quyết định việc xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay là sự đổi mới toàn diện về mọi mặt, trong đó có bộ phận quan trọng là tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, phát huy hiệu lực quản lý của nhà nước trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý, phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam: "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo"(15).
Đó là định hướng cho việc Đảng ta tiếp tục tự chỉnh đốn, tự đổi mới, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh; chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân./.
PGS. TS. Nguyễn Thế Thắng - Trưởng khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
--------------------------------------
Ghi chú:
(1), (3) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.2011, tr.296; tr.303-304.
(2) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2011, tr.510.
(4), (12) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.2011, tr.232; tr.127.
(5) Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, Nxb CTQG, H.1995, tr.8.
(6) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, H.2011, tr.293.
(7) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2011, tr.572.
(8) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2011, tr.65.
(9), (10) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.75.
(11) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2011, tr.473.
(13), (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2001, tr.437.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.85.
Bài đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước Số 9/2013
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục