Hà Nội, Ngày 29/03/2024

Một số nhận thức lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa qua các bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Ngày đăng: 01/05/2023   06:56
Mặc định Cỡ chữ
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân trong quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là những vấn đề có ý nghĩa chỉ đạo toàn diện, mang tính nền tảng về lý luận và thực tiễn, nội hàm sâu rộng với những nội dung quan trọng.
 

Giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền theo quy định của Hiến pháp

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời tạo nên sự khác biệt lớn nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền ở các nước tư bản phương Tây. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền không có nghĩa là làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, mà góp phần quan trọng nâng cao vị thế, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoàn thành sứ mệnh tiên phong của Đảng ta. Trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp (ngày 24/8/2015), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định và nhấn mạnh nội dung mang tính nguyên tắc: “Trong bất luận hoàn cảnh nào, phải kiên định lập trường tư tưởng, luôn giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng ta trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật pháp của nước ta… Nhưng phải luôn nhớ là Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, rất hệ trọng”(1). 

Ở Việt Nam, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu khách quan, thể hiện tính chính danh về sự cầm quyền được hiến định, được lịch sử lựa chọn, Nhân dân tin tưởng trao trọng trách và tuyệt đối tin theo, nhất là được kiểm chứng trên thực tiễn bằng bản lĩnh, uy tín, năng lực, đạo đức của một đảng cách mạng chân chính, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền vì lợi ích của quốc gia - dân tộc, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Nhân dân là cơ sở, là nguồn sức mạnh hùng hậu của Đảng, bởi vậy phục vụ Nhân dân là lý do tồn tại của Đảng. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước phải hợp lòng dân, xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm bảo đảm Nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật. 

Thước đo tính đúng đắn, uy tín sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải được thể hiện ở hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Năng lực, hiệu quả hoạt động, uy tín xã hội của Nhà nước không chỉ do các tổ chức đảng đánh giá, mà còn dựa vào sự đánh giá công khai, dân chủ của người dân, cộng đồng và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ ở cấp Trung ương, mà ở cả cấp địa phương, thể hiện trong mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức đảng và các cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp. Trên cơ sở Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và các thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Đó là những phương hướng lớn cho sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, là những quan điểm cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại. Cương lĩnh, chiến lược, đường lối đúng đắn, khoa học và phù hợp xu thế thời đại là điều kiện cơ bản để Đảng ta phát huy được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Đây cũng chính là vị thế, trách nhiệm, quyền lực chính trị, tính chính danh của Đảng(2).

Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp”(3). Trách nhiệm của Nhà nước là phải kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật và tổ chức thi hành chính sách, pháp luật một cách kịp thời, triệt để. Lãnh đạo việc thể chế hóa đó là nội dung quan trọng trong sự cầm quyền của Đảng, thể hiện sự cầm quyền của Đảng bằng pháp luật, nói cách khác, ý chí của Đảng được thực hiện bằng tất cả sức mạnh của luật pháp. Sự lãnh đạo này bảo đảm cho luật pháp được thực hiện công bằng, không thiên vị, phản ánh đúng nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Tuy nhiên, sự lãnh đạo này luôn mang tính chính trị. Có nghĩa là, Đảng xác định mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, sao cho Nhà nước thật sự là tổ chức quyền lực của Nhân dân, thể hiện tập trung và đầy đủ nhất ý chí, nguyện vọng và lợi ích của người dân; vạch ra đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giới thiệu đảng viên ưu tú và người ngoài Đảng đủ năng lực, phẩm chất để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử hoặc để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước; giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên và quần chúng; kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Để thực hiện thành công vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, Đảng sử dụng các phương pháp chủ yếu như tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục và tự nêu gương của đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước. Mọi tổ chức của Đảng đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật(4).

Để thực hiện tốt nguyên tắc đó, đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm của tất cả các chủ thể, đồng thời phải thực hiện tốt cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đảng phải thường xuyên phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn để kịp thời đưa ra những quyết sách đúng đắn, nhằm tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và vận động, hướng dẫn Nhân dân thực hiện. Mặt khác, phải hoàn thiện hệ thống và cơ chế hoạt động để Đảng lãnh đạo toàn diện các mặt của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp. Đồng thời, cần đẩy mạnh thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng thông qua xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện hệ thống chính trị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần yêu cầu: “Cần nêu cao hơn nữa quyết tâm chính trị trong việc hoàn thiện bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị phù hợp hơn với điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Nghiêm túc thể chế hóa và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở và hệ thống các đơn vị sự nghiệp trong cả nước”(5). Thực tiễn đã chứng minh, chế độ chính trị và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của đất nước với tính ưu việt rất rõ ràng.

Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XIII đã khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(6).

Đặc trưng cốt lõi của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân theo quy định của pháp luật

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh rằng: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là “Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm để mỗi người dân chủ động, tích cực sử dụng, thực hiện đúng đắn và an toàn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong làm ăn, sinh sống, đóng góp mọi sức người, sức của, năng lực và trí tuệ xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”(7). Đó là Nhà nước mà Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; Nhân dân có toàn quyền quyết định tính chất, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng hoạt động, xu hướng phát triển của bộ máy nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước để thực hiện quyền lực của mình và kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều do người dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập; mọi vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích chung của cả nước và của địa phương đều do Nhân dân trực tiếp hay gián tiếp thảo luận, bàn bạc, quyết định và tổ chức thực hiện. 

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải có tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thuận tiện cho người dân sử dụng quyền lực của mình và kiểm tra, giám sát hoạt động của chính bộ máy đó; có mục đích hoạt động vì lợi ích của Nhân dân; mọi chủ trương, chính sách, pháp luật đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của người dân; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng, tận tụy phục vụ Nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực; công cuộc cải cách bộ máy nhà nước hiện nay cũng nhằm phục vụ lợi ích của Nhân dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, mục đích của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhằm giữ vững và phát huy mạnh mẽ hơn nữa tính nhân dân, tính dân chủ và nhân văn của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế từng bước được xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”(8). Đồng chí cũng chỉ rõ, tính nhân dân là đặc trưng thể hiện sự khác biệt về mặt bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với nhà nước pháp quyền tư sản: “Chúng ta nhận thức rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(9). Chính tính nhân dân đã làm cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có được tính dân chủ thực sự và tính nhân văn sâu sắc.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, giữ vững “tính nhân dân” của Nhà nước là giữ cho Nhà nước luôn là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững “tính dân chủ” của Nhà nước là giữ cho Nhà nước luôn luôn là Nhà nước mà trong tổ chức và hoạt động của nó đều có sự tham gia tích cực và đông đảo của Nhân dân; công dân được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp mà Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm, đồng thời, Nhà nước có trách nhiệm mở rộng các quyền, lợi ích hợp pháp đó phù hợp với sự phát triển của xã hội. Giữ vững “tính nhân văn” của Nhà nước là giữ cho Nhà nước luôn là Nhà nước mà mọi chủ trương, chính sách, pháp luật đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản và chính đáng của con người và nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích đó; bên cạnh những chủ trương, chính sách, pháp luật có giá trị như nhau đối với mọi người thì còn có các chủ trương, chính sách, pháp luật dành riêng cho các đối tượng đặc biệt, người yếu thế, như những người và gia đình có công với cách mạng, trẻ em, người già, người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa...

Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XIII khẳng định một nhiệm vụ lớn cần phải nghiêm túc thực hiện là: “Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(10), với quan điểm bao trùm là “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(11). Vì vậy, Đảng ta xác định cần thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; đổi mới cơ chế bầu cử để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho Nhân dân; phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao đạo đức xã hội và trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân(12).

Hệ thống pháp luật là trụ cột của hệ thống quản trị quốc gia. Do vậy, để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để tiếp tục thể chế hóa Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Vì vậy, cần bám sát, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và phân tích, nắm chắc yêu cầu thực tiễn cuộc sống; đồng thời tiếp tục tăng cường năng lực và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật… Tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền con người, quyền công dân”(13).

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với việc giữ vững ổn định chính trị, đổi mới toàn diện hệ thống chính trị, phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước

Thứ nhất, giữ vững ổn định chính trị: đây là điều kiện, tiền đề rất quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Giữ vững ổn định chính trị, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”(14). Sự ổn định chính trị phụ thuộc vào sự ổn định của Nhà nước, vì Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là tấm gương hội tụ và phản chiếu tập trung nhất toàn bộ đời sống chính trị của đất nước, là công cụ chủ yếu nhất và có hiệu lực nhất để xây dựng, củng cố, bảo vệ và phát huy nền chính trị xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực chất là một cuộc “cách mạng” trong Nhà nước, do đó, nếu không được tiến hành một cách khoa học thì sẽ làm mất sự ổn định trong Nhà nước, từ đó sẽ làm mất sự ổn định chính trị của cả đất nước.

Thứ hai, đổi mới toàn diện hệ thống chính trị: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bộ phận trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với Đảng cầm quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Sức mạnh của Nhà nước có được là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự tham gia tích cực và sự giúp đỡ to lớn của các tổ chức chính trị - xã hội. Ngược lại, chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng như mức độ phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội phụ thuộc rất lớn vào hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh: “Xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa liêm chính, phát triển; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ; xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”(15). 

Có thể nói, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là kết quả tổng hợp của toàn bộ công cuộc đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả hơn. Xây dựng Nhà nước về cả lập pháp, hành pháp và tư pháp, gắn với đổi mới, hoàn thiện chính quyền các địa phương và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật theo các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp năm 2013”(16).

Thứ ba, phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở nền kinh tế phát triển, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng; ngược lại, nền kinh tế phát triển, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng cũng chỉ có thể được xây dựng khi có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Do đó, cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng bộ, toàn diện, đồng thời với các mặt hoạt động khác trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Đồng chí cũng chỉ rõ: “Tiếp tục có những chủ trương, giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hóa, xây dựng con người; đổi mới quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phát huy dân chủ, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Ðảng ngày càng trong sạch, vững mạnh”(17). 

Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XIII xác định: “Đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(18). 

Có thể thấy, quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay với tính chất “là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(19). Theo đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kết quả tổng hợp của việc thực hiện toàn bộ những phương hướng và giải pháp về phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, pháp luật… dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./. 

------------------

Ghi chú:

(1) Nguyễn Phú Trọng, Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.435-436.

(2) Vũ Trọng Lâm, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu khách quan, Tạp chí Cộng sản, số 944, tháng 6/2020.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.196-197.

(4) Vũ Trọng Lâm (Chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.180-181.

(5),(7),(8),(13),(14),(15),(16),(17) Nguyễn Phú Trọng, Vững bước trên con đường đổi mới, tập 2, Nxb CTQG-ST, H.2018, tr.17, tr.435-436, tr.242, tr.424, tr.415, tr.291, tr.88, tr.26.

(6),(10),(11),(12),(18) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb CTQG-ST, H.2022, tr.38, tr.46, tr.39, tr.46-48, tr.38.

(9),(19) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021.

 

PGS.TS Vũ Trọng Lâm, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.

Công chức và vấn đề quản trị bản thân

Ngày đăng 05/03/2024
Cấu trúc quản trị bản thân và điều chỉnh nhận thức, hành vi của công chức trong hoạt động công vụ rất đa dạng. Môi trường công vụ với những hoạt động, quan hệ của công chức tạo nên các yếu tố cấu trúc kiểm soát nhận thức và hành động của họ. Bài viết phân tích các vấn đề tự do và khuôn khổ, quản trị bản thân của công chức hiện nay.

Một số khuyến nghị khi xây dựng chính quyền đô thị tại thành phố Hải Phòng

Ngày đăng 27/02/2024
Chính quyền đô thị là mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với xu hướng của thế giới. Ở Việt Nam, mô hình này đã được triển khai và thí điểm triển khai thực hiện 03 thành phố trực thuộc trung ương gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Hải Phòng là thành phố cảng biển quan trọng, trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học thương mại và công nghệ thuộc Vùng Duyên hải Bắc Bộ. Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và sự phát triển đô thị của thành phố Hải Phòng đã thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; đồng thời đặt ra yêu cầu tất yếu phải xây dựng mô hình chính quyền đô thị để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Bài viết phân tích đặc trưng đô thị của thành phố Hải Phòng, những thuận lợi và khó khăn của thành phố khi xây dựng mô hình chính quyền đô thị và một số khuyến nghị về xây dựng chính quyền đô thị tại thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.

Tiêu điểm

Sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam

Trong thời đại cách mạng công nghiệp hiện nay, với chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, nền kinh tế Việt Nam cơ bản đã vượt qua giai đoạn khó khăn, đạt được tốc độ tăng trưởng cao, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động cả chiều thuận lợi và không thuận lợi đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, vì vậy cần tiếp tục có những nghiên cứu, đánh giá sự tác động đó để có giải pháp phù hợp với chính sách an sinh xã hội một cách hiệu quả. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với công tác an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.