Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2023 ngành Nội vụ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ rõ: Nghiên cứu sơ kết hiệu quả, tiếp tục thực hiện việc luân chuyển cán bộ; có lên, có xuống, có vào, có ra. |
Công tác cán bộ là “công việc gốc” của Đảng và Nhà nước ta
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1); “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(2). Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo ở tầm chiến lược về công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”(3). Như vậy, đức và tài là hai mặt thống nhất với nhau trong mỗi con người, có quan hệ mật thiết, biện chứng và không được coi nhẹ mặt nào. Trong mối quan hệ giữa đức và tài thì đức là gốc, bởi đức là cơ sở, nền tảng và định hướng cho việc phát triển tài.
Để triển khai thực hiện hiệu quả quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác cán bộ phù hợp với điều kiện hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 115/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập để xây dựng kế hoạch tuyển dụng, báo cáo cơ quan có thẩm quyền quản lý phê duyệt hoặc quyết định theo thẩm quyền.
Để thống nhất các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 214-QĐ/TW ngày 02/01/2020 về “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý” thay thế Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04/8/2017. Quy định số 214-QĐ/TW đã quy định rõ về khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, theo đó tiêu chuẩn chung bao gồm: về chính trị, tư tưởng; về đạo đức, lối sống; về trình độ; về năng lực và uy tín; về sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm. Về tiêu chuẩn cụ thể, bao gồm 19 nhóm tiêu chuẩn tương ứng với các chức danh, nhóm chức danh cán bộ. Về một số trường hợp đặc thù áp dụng tiêu chuẩn chức danh khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, cụ thể: (1) Cán bộ được điều động, luân chuyển từ nơi khác đến không nhất thiết phải bảo đảm tiêu chuẩn “đã kinh qua chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp”; (2) Cán bộ được bổ nhiệm giữ chức vụ tương đương hoặc kiêm nhiệm thêm chức vụ khác thì không nhất thiết phải bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn chức danh tương đương hoặc tiêu chuẩn chức vụ kiêm nhiệm; (3) Cán bộ đang công tác trong lực lượng vũ trang, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử không nhất thiết phải bảo đảm tiêu chuẩn “quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp”; (4) Khi xem xét, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử chức danh mới chưa có trong quy định này thì áp dụng tiêu chuẩn chung và vận dụng tiêu chuẩn chức danh tương đương có vị trí, tính chất tương đồng.
Về khung tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý được chia ra thành 02 nhóm: (1) Nhóm tiêu chí đánh giá về chính trị, tư tưởng; đạo đức, lối sống; tác phong, lề lối làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật. (2) Nhóm tiêu chí đánh giá về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, gồm có: Tiêu chí chung và tiêu chí đặc thù theo từng nhóm chức danh cán bộ, cụ thể là: đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan tham mưu của Đảng; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan hành chính nhà nước; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan dân cử; đối với cán bộ lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý lực lượng vũ trang; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý toà án nhân dân; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý viện kiểm sát nhân dân.
Cùng với việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định, quy chế về công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” và siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đồng thời thực hiện nghiêm các quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ, chuẩn bị thật tốt Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị, Quy định số 214-QĐ/TW sẽ góp phần tạo dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trọn vẹn đức tài, đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ cách mạng của đất nước nói chung, mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng, xứng đáng với niềm tin yêu và sự kỳ vọng của Nhân dân.
Việc thực hiện công tác quy hoạch cán bộ là để có tầm nhìn xa và chủ động trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong việc bố trí cán bộ. Trong thời gian qua, công tác quy hoạch cán bộ từng bước đi vào nền nếp và đạt được một số kết quả như: nguồn quy hoạch cán bộ cho các chức danh lãnh đạo, quản lý khá dồi dào; trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, tỷ lệ cán bộ nữ, trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số có bước tiến bộ...
Tuy nhiên, công tác quy hoạch cán bộ vẫn còn những hạn chế như: chưa có tầm nhìn xa; còn tình trạng khép kín trong từng ngành, địa phương; chưa bảo đảm liên thông giữa quy hoạch của cấp dưới với cấp trên, giữa quy hoạch của Trung ương và địa phương; giữa các ngành và các địa phương. Chậm quy hoạch cán bộ cấp chiến lược và tập trung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý mà chưa chú ý quy hoạch các lĩnh vực khác. Chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao; chưa bảo đảm cơ cấu ba độ tuổi. Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu. Công tác quy hoạch ở một số bộ, ngành, địa phương còn hạn chế; chưa gắn với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí cán bộ.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đầy đủ, sâu sắc đến công tác luân chuyển cán bộ; việc thực hiện còn chậm và chưa đồng đều giữa các cấp, các ngành; một số nơi chưa dựa trên cơ sở đánh giá và quy hoạch cán bộ; còn nhầm lẫn giữa luân chuyển với điều động cán bộ theo yêu cầu. Bên cạnh đó, việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển có một số trường hợp còn bất hợp lý, khi bố trí nhiệm vụ không đúng với chuyên ngành đào tạo. Một số cán bộ luân chuyển chậm tiếp cận với công việc, cá biệt có trường hợp còn chọn địa bàn luân chuyển và vị trí trở về sau luân chuyển. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng bộc lộ một số mặt hạn chế; công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và còn thiếu tầm chiến lược; việc đào tạo, bồi dưỡng chưa kết hợp chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đồng bộ, còn cồng kềnh, phân tán; công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng thiếu thống nhất và chưa cân đối giữa đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị với đào tạo, bồi dưỡng về công tác chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý nhà nước.
Để tiếp tục đổi mới và khắc phục những hạn chế trong công tác cán bộ, ngày 18/8/2022, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 80-QÐ/TW về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Đây là những nội dung rất cụ thể, sát với thực tiễn, góp phần bảo đảm tính chặt chẽ, dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Ngày 08/9/2022, Ban Bí thư ban hành Thông báo kết luận số 20-TB/TW về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật. Kết luận nêu rõ, khuyến khích cán bộ bị kỷ luật cảnh cáo hoặc khiển trách mà năng lực hạn chế, uy tín giảm sút tự nguyện xin từ chức. Nếu không tự nguyện xin từ chức thì cấp có thẩm quyền xem xét miễn nhiệm theo quy định. Việc bố trí cán bộ sau khi từ chức, miễn nhiệm thực hiện theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, việc bố trí công tác đối với cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật nhằm thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và quy định của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, thực hiện phương châm “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ.
Giải pháp tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng, bố trí và luân chuyển cán bộ
Một là, làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trên cơ sở xác định mục tiêu cho từng đối tượng cán bộ, từng cấp cán bộ để xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; phương thức đào tạo, bồi dưỡng cần đa dạng, phong phú, kết hợp đào tạo chính quy với các hình thức đào tạo khác, khuyến khích cán bộ tự nghiên cứu nâng cao trình độ. Cần xây dựng quy chế kiểm soát sau đào tạo, tránh tình trạng Nhà nước cấp kinh phí cho cán bộ đi đào tạo nhưng cá nhân không chấp hành sự phân công của tổ chức, gây lãng phí hoặc tình trạng tổ chức cử người đi đào tạo nhưng không sử dụng đúng chuyên môn được đào tạo. Đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cần được lựa chọn đúng; công tác quy hoạch phải gắn với các khâu trong công tác cán bộ, như xác định tiêu chuẩn, đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, quản lý... Cán bộ quy hoạch phải trên cơ sở xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức, từ đánh giá thực tế năng lực, phẩm chất cán bộ và sau đó phải có kế hoạch tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ.
Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ cần được cụ thể hóa, thông qua việc bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Từ Trung ương đến cơ sở phải có sự đổi mới trong công tác cán bộ từ đổi mới tư duy, đến các khâu đánh giá, lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch phải công tâm, khách quan bảo đảm lựa chọn đúng người làm đúng việc, vừa tạo động lực cho cán bộ cống hiến, phấn đấu vươn lên, vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Đồng thời, qua kết quả đánh giá cần kiên quyết đưa ra khỏi quy hoạch những người không đủ phẩm chất, năng lực.
Công tác cán bộ phải được thực hiện theo hướng vừa tuyển chọn, vừa sàng lọc; thực hiện nghiêm cơ chế bổ nhiệm phải đi đôi với từ chức của cán bộ; xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ trong thời kỳ mới làm cơ sở cho việc đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ. Đặc biệt, cần bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để có nhiều cơ hội lựa chọn; có cơ chế để Nhân dân giám sát các công việc và phẩm chất của cán bộ; có chế độ quy định cán bộ tự phê bình, tiếp thu những ý kiến của người dân để sửa chữa khuyết điểm và phát huy ưu điểm...
Ba là, kiện toàn hệ thống tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ những người làm công tác tổ chức, cán bộ.
Kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ những người làm công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Trong đó, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ phải thực sự trung thực, khách quan, công tâm, có tâm, có tầm. Đồng thời, có khả năng đánh giá cán bộ cả về chuyên môn và phẩm chất đạo đức.
Bốn là, thực hiện phân công, phân cấp quản lý cán bộ.
Trên cơ sở các quy định phải xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của mình trong quản lý cán bộ; thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm trước cấp ủy và lãnh đạo cấp trên về cán bộ thuộc quyền quản lý của mình. Trong bổ nhiệm cán bộ, tránh tình trạng cấp trên can thiệp trái nguyên tắc vào công tác cán bộ của cấp dưới. Vì vậy, việc lựa chọn những cán bộ có đủ tiêu chuẩn về năng lực, phẩm chất để bố trí vào những vị trí quan trọng, có ý nghĩa rất quan trọng đến sự phát triển của đất nước.
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: công tác tuyển dụng, sử dụng, bố trí và luân chuyển cán bộ được hết sức coi trọng trong hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là quan điểm về xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị, với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược của Đảng ta và là những khâu thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành sức mạnh chính trị to lớn có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kiên định với quan điểm “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(4), Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”; và “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sự gương mẫu, tinh thần vì nhân dân phục vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp. Coi trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả, sản phẩm thực tế theo chức trách, nhiệm vụ được giao và đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Chú trọng cơ cấu hợp lý, sớm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số ở các cấp, nhất là ở cơ sở. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ; đồng thời, có cơ chế khuyến khích, bảo vệ những cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(5).
Trong các nhiệm vụ trọng tâm, Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6).
Đảng nêu rõ định hướng thời gian tới là: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của Đảng”(7).
Với chủ trương đúng đắn của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự đồng thuận của Nhân dân, sau 37 năm đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, đặc biệt sau Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng, kinh tế của nước ta tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt: “Khi bắt đầu thực hiện cải cách, tỉ lệ nghèo ở Việt Nam là trên 70%. Đến năm 2020, tỉ lệ này giảm xuống còn 5% và hơn 10 triệu người đã thoát khỏi đói nghèo chỉ trong những năm 2010. GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng gần gấp 10 lần, từ dưới 300 USD vào những năm 1980 lên 2.800 USD vào năm 2020”(8). Năm 2022: “Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 ước tính tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022 do nền kinh tế đã khôi phục trở lại”(9). Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi tích cực: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; thế và lực của đất nước được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10)./.
-------------------
Ghi chú:
(1),(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.309, tr.313.
(3) Sđd, tập 11, tr.399.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.66.
(5),(6),(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.242-243, tr.334, tr.331-332.
(8) Khánh Minh, Kỳ tích kinh tế đáng kinh ngạc của Việt Nam, Lao động, Thứ hai, ngày 03/10/2022, 07:45 (GMT+7).
(9) Quân đội Nhân dân, Kinh tế phục hồi, GDP năm 2022 tăng 8,02%, cao nhất trong giai đoạn 2011-2022, Thứ năm, ngày 29/12/2022.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.25.
PGS.TS Vũ Quang Vinh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
tcnn.vn
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục