Hà Nội, Ngày 29/03/2024

Xây dựng chiến lược trong môi trường chuyển đổi số ở Việt Nam

Ngày đăng: 26/03/2023   08:18
Mặc định Cỡ chữ
Ở mỗi quốc gia, việc xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch… đóng vai trò rất quan trọng nhằm có lộ trình, phương pháp, tổ chức sắp xếp để triển khai thực hiện các mục tiêu có hiệu quả. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra rộng khắp và mạnh mẽ hiện nay, các nhà lãnh đạo, quản lý cần xây dựng chiến lược chi tiết, cụ thể và mang tính lâu dài để thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc và Phiên họp lần thứ 5 của Ủy ban Quốc gia và Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ, đánh giá kết quả năm 2022 và đề ra nhiệm vụ, giải pháp năm 2023, ngày 25/02/2023. Ảnh: VGP

Quan niệm về chiến lược và các giá trị của việc xây dựng chiến lược

Chiến lược được đặt ra nhằm khai thác được những thế mạnh cơ bản của tổ chức (các nguồn lực và năng lực), có tính đến những cơ hội, thách thức của môi trường. Chiến lược hướng tới xây dựng một quá trình hành động trên diện rộng cho tổ chức để giúp điều phối và truyền đạt các mục đích, tức là xác định điểm đích và phương hướng chung cũng như các nhiệm vụ để đạt được của các nhà quản lý. Dựa vào những phân tích khoa học về môi trường, chiến lược luôn phải tính đến các rủi ro, sự phụ thuộc vào các nguồn lực, cũng như các khả năng và yêu cầu kỹ thuật. Chiến lược được xây dựng một cách khoa học, dựa vào cơ cấu, hoạt động của tổ chức, qua đó lựa chọn và phản ánh các chủ trương lớn, tổng thể về sự phát triển cho một giai đoạn dài hạn; phản ánh mục tiêu, cách thức và lực lượng (phù hợp với nguồn lực) để đạt được mục tiêu của tổ chức. Có thể coi chiến lược là tập hợp những quyết định và hành động hướng mục tiêu để các nguồn lực và năng lực của tổ chức đáp ứng được những cơ hội và thách thức từ bên ngoài. 

Như vậy, chiến lược luôn gắn liền với các mục tiêu của tổ chức, không chỉ bao gồm những dự định thực hiện, mà cả cách thức tiến hành công việc của tổ chức; chiến lược sẽ bao gồm một loạt các hành động và quyết định có liên quan chặt chẽ và sự lựa chọn phương pháp phối hợp những hành động và quyết định đó. Giá trị xuyên suốt của một chiến lược là có được sự kết hợp chặt chẽ giữa các thành viên lãnh đạo nhằm vạch rõ tầm nhìn, hướng đi và các thành tựu sẽ đạt được, đồng thời quyết tâm theo đuổi nó. Tóm lại, chiến lược là kế hoạch hành động tổng quát nhất. 

Khả năng xác định được các mục tiêu và ưu tiên quan trọng, từ đó xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động đảm bảo nhất quán với lợi ích và giá trị lâu dài của tổ chức, được coi là “Tư duy chiến lược”. Ví dụ, tại Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, đã thể hiện một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. Mục tiêu đến năm 2025 được đề ra trong Chiến lược gồm: cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội; huy động rộng rãi sự tham gia của xã hội; vận hành tối ưu các hoạt động của cơ quan nhà nước; giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội; thay đổi đột phá xếp hạng quốc gia, với các chỉ tiêu cần đạt là đưa Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu cả về chỉ số tổng thể, chỉ số tham gia điện tử cũng như chỉ số dữ liệu mở. Đồng thời, Chiến lược đặt ra 06 nhiệm vụ trọng tâm gồm: 1) Hoàn thiện môi trường pháp lý; 2) Phát triển hạ tầng số; 3) Phát triển các nền tảng số và hệ thống quy mô quốc gia; 4) Phát triển dữ liệu số quốc gia; 5) Phát triển các ứng dụng, dịch vụ quốc gia; 6) Bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia. 

Thay đổi từ mô hình truyền thống sang quản trị số (E-governance) không đơn thuần chỉ liên quan đến công nghệ. Đó là kết quả, quy trình và con người sử dụng thông tin cũng như công nghệ truyền thông (ICT) để nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và hiệu lực của các tổ chức công. Quản trị số sử dụng các công nghệ số cơ bản như: Trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây… để thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa tổ chức công. Quản trị số sử dụng công nghệ số như một phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa để tạo ra các giá trị công, chính phủ số hy vọng sẽ làm thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Những giá trị công đó là: dữ liệu cực lớn; truy cập mở sâu; công khai, minh bạch; dịch vụ hoàn hảo; lợi ích xã hội; thỏa mãn, hài lòng; hiệu quả tích cực; niềm tin, trung thành.

Để hiện thực hóa ý niệm về một Chính phủ kiến tạo, liêm chính và có trách nhiệm giải trình nhờ đó tăng cường thúc đẩy một xã hội trong đó Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các quyền cơ bản của con người thực sự được tôn trọng, đảm bảo một xã hội bình đẳng dựa trên sự đồng thuận rộng rãi của xã hội, khuyến khích hỗ trợ và duy trì sự phát triển cá nhân, đặc biệt là đối với những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn… đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận… giúp cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán. Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả. 

Trong điều kiện hiện nay, trên cơ sở xây dựng xã hội tri thức cùng với việc nâng cao quyền hạn, vai trò cá thể, cộng đồng và tổ chức xã hội, chuyển đổi số cung cấp một nền tảng cho phép Chính phủ điều hành hiệu quả, minh bạch và chịu trách nhiệm trước công chúng. Sự tham gia của cộng đồng đối với Chính phủ, tôn trọng pháp quyền, tự do kết nối và biểu đạt ý nguyện là những giá trị cốt lõi của quản trị “đúng” tinh thần của quyền được thông tin. Quản trị số giúp có thể định hướng các nhiệm vụ chiến lược đúng đắn hơn, để phù hợp với các mối quan hệ chính trị - kinh tế - xã hội nhân văn với cam kết hướng tới các giá trị pháp quyền, dân chủ, dịch vụ đáng tin cậy. Từng bước cung cấp dữ liệu mở và mở dữ liệu để thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số. Trong đó, các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ triển khai các dịch vụ cơ bản, thiết yếu liên quan đến người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước cần được phát triển trước. Xác định dữ liệu về dân cư, đất đai, doanh nghiệp là dữ liệu trụ cột, cốt lõi cần phải hoàn thành, đưa vào khai thác sớm để dẫn dắt, liên kết, thống nhất toàn bộ dữ liệu trong cơ quan nhà nước về các ngành, lĩnh vực.

Quản trị số thúc đẩy xây dựng và truyền đạt được chiến lược hành động phù hợp với mục đích và giá trị của tổ chức; xác định được thứ tự ưu tiên các mục tiêu của tổ chức trên cơ sở sự sáng tạo ra vị thế có giá trị và độc đáo bao gồm các hoạt động khác biệt; sự lựa chọn, đánh đổi trong cạnh tranh; việc tạo ra sự phù hợp giữa các hoạt động của tổ chức. Do đó, chiến lược cần phải dự liệu được các vấn đề như: nơi mà một tổ chức cố gắng vươn tới trong dài hạn (phương hướng); tổ chức phải cạnh tranh trên thị trường nào và những loại hoạt động nào cần được thực hiện trên thị trường đó (thị trường, quy mô); tổ chức làm thế nào để hoạt động tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường (lợi thế); những nguồn lực (kỹ năng, tài sản, tài chính, các mối quan hệ, năng lực kỹ thuật, trang thiết bị) cần phải có để có thể cạnh tranh được; những nhân tố từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của tổ chức; những giá trị và kỳ vọng nào tổ chức cần đạt tới(1).

Các chiến lược hiệu quả phải xác định rõ các mục đích (mục tiêu tổng quát, định hướng) thực tế của tổ chức và thiết lập các mục tiêu cụ thể (các nhiệm vụ đặt ra) phù hợp với định hướng đó trong một khung thời gian xác định nằm trong khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện của tổ chức, cá nhân liên quan đối với tổng thể các giải pháp đã dự kiến đề xuất. Tuy nhiên, nếu thiếu việc xây dựng các kế hoạch hoạt động, bao gồm cả các phương án chính và dự phòng, thì các chiến lược không thể vận hành hiệu quả. 

Các yếu tố đảm bảo kế hoạch đạt được hiệu quả

Thứ nhất, đảm bảo nguyên tắc “chiến lược phải đi trước một bước”: chiến lược cho giai đoạn nào thì cần được xây dựng trước giai đoạn đó theo phương thức “cài răng lược”, tức là ngay trong giai đoạn đầu đã phải tính đến giai đoạn tiếp theo, thể hiện trong “tầm nhìn”, và được hình tượng hóa bằng hình ảnh của tương lai về một mục đích mang tính chiến lược của tổ chức, như một lý tưởng mang tính lựa chọn độc đáo những giá trị cốt lõi để tạo ra một hoặc nhiều điều đặc biệt trong tương lai. Tuy nhiên, khi hoạch định chiến lược nhất thiết phải đánh giá đúng, sát thực tế, nếu không sẽ không thể định hướng được việc cần làm và không cần làm của một tổ chức, đồng thời cũng không thể mang lại động lực thúc đẩy nhân viên, giúp tạo ra các kế hoạch hành động nhằm phát triển tổ chức đạt tới các mục tiêu và chỉ tiêu trong cùng một định hướng. 

Thứ hai, kế hoạch hoạt động phải kết nối với chiến lược: kế hoạch hoạt động là để cụ thể và chi tiết hóa chiến lược bằng hành động khả thi. Ví dụ, tại Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 đã đặt ra các nhiệm vụ trọng tâm là: “Cải cách thể chế, trong đó tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật”. Vì vậy, việc xây dựng các kế hoạch hành động, thiết lập các dự án để đảm bảo đạt được các mục tiêu hướng tới mục đích cuối cùng của tổ chức, nếu không đặt đúng bối cảnh với chiến lược tổng thể để xác định mục tiêu tổng quát, thì dù các hành động đó được thực hiện tốt cũng không đem lại hiệu quả. 

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước: quản trị chiến lược là một quá trình sắp xếp linh hoạt các chiến lược trên cơ sở nắm vững tình hình nhân lực, lãnh đạo, kỹ thuật và phương pháp điều hành công việc, đồng thời cũng hướng tới củng cố các kết quả hoạt động. Nguồn nhân sự hoạch định chiến lược cần phải có tư duy chiến lược và năng lực đưa ra quyết định chiến lược.

Tư duy chiến lược là một hoạt động liên tục để xác lập và duy trì phương hướng chiến lược và hoạt động của tổ chức; quá trình ra quyết định nhanh để giải quyết những tình huống đang thay đổi và những thách thức trong môi trường hoạt động. Tư duy chiến lược là cần hướng tới đạt được một viễn cảnh (tầm nhìn) như: xuất phát từ mục đích tối thượng rõ ràng được thống nhất chung bởi đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao cần hướng tới xác định tầm nhìn với tư tưởng hay hệ thống tư tưởng làm nền tảng chỉ đạo và vận hành chiến lược trong tương lai; thực hiện cơ chế trách nhiệm giải trình, không chỉ trong nội bộ các cơ quan nhà nước, mà còn với công luận về việc đáp ứng được các mục tiêu chính sách; một khung khổ pháp lý chung, thống nhất để đảm bảo các chủ thể có thể phối hợp hành động để đạt các mục tiêu; trên cơ sở phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số, công tác đảm bảo thông tin phải được tổ chức hiệu quả để thúc đẩy khả năng khai thác cơ hội và ứng phó trước những thay đổi từ bên ngoài và nội bộ, đồng thời thực hiện một khuôn khổ chặt chẽ cho quản trị rủi ro; vấn đề chiến lược mà tổ chức đang phải đối mặt và những ứng phó trước các vấn đề nêu trên sẽ yêu cầu những kỹ năng trong quản trị chiến lược, đó là khả năng nhận thức và giải quyết thành công những vấn đề chiến lược của tổ chức. 

Trong lĩnh vực công, những vấn đề nêu trên có thể bao gồm: giải quyết nhu cầu của khách hàng; sử dụng tài chính có hiệu quả và giá trị lớn hơn; cung cấp các dịch vụ đã được cải thiện và đổi mới; nhiều chủ thể cùng phối hợp xây dựng và thực hiện chính sách; gia tăng đối thoại với khách hàng; phối hợp tốt hơn giữa chính quyền từ Trung ương đến địa phương; dịch vụ công liên tục được cải thiện; thực hiện chiến lược xây dựng chính phủ điện tử (một khuôn khổ chung về những nguyên tắc chủ yếu như khả năng hoạt động tương hỗ và các tiêu chuẩn kỹ thuật hỗ trợ). 

Ban hành và thực hiện hiệu quả chiến lược là quá trình cân nhắc và lựa chọn phương án hành động tối ưu để đạt mục đích và những mục tiêu cơ bản, dài hạn của tổ chức, từ đó có thể hình thành kế hoạch chung để đạt được chiến lược đó. Trong việc thực hiện chiến lược cần có năng lực với các phương thức tiến hành linh hoạt, đa dạng. Lãnh đạo của tổ chức phải cam kết mạnh mẽ và làm cho chiến lược trở thành một quá trình ăn sâu vào cơ cấu của tổ chức, trở thành văn hóa của tổ chức, qua đó chiến lược được thực hiện kiên quyết, sáng tạo và kịp thời. Do đó, cần luôn đánh giá và xem xét lại chiến lược và các quyết định chiến lược như là một phần trong nhiệm vụ giám sát tình hình phát triển của tổ chức. Phải cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố như: tầm nhìn của tổ chức còn có giá trị hay không; các chủ điểm trong chiến lược có đúng không; có cần thêm vào các chủ điểm mới do tình hình đã thay đổi, do xuất hiện công nghệ mới và có áp lực từ môi trường bên ngoài hoặc thay đổi trong khả năng hoạt động hay không; có chủ điểm chiến lược nào không còn phù hợp; tiến trình nào đang thực hiện đối với chủ điểm chiến lược và có cần phải xác định lại thứ tự ưu tiên hoặc lập lại kế hoạch để đảm bảo rằng tỷ lệ thay đổi đáp ứng được những yêu cầu hoạt động. Việc đánh giá cũng cần được tiến hành ở các cấp độ tầm nhìn, lộ trình và kế hoạch chi tiết.

Với tinh thần “… tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới” của Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XIII, nhằm góp phần “Nâng cao chất lượng tham mưu văn bản của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, nhất là trong tham mưu chiến lược, hoạch định chủ trương, đường lối; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng”, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược trong môi trường chuyển đổi số cần cấp thiết được “chuyển đổi” trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc ở các cơ quan của Đảng và Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở./.

-----------------

Ghi chú:

(1) Lưu Kiếm Thanh, Nghiệp vụ hành chính văn phòng, Nxb Thống kê, H.2009.

 

PGS.TS Lưu Kiếm Thanh - Học viện Hành chính Quốc gia

TS Huỳnh Quý - Công an tỉnh Quảng Nam

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Các bộ, ngành đã đơn giản hóa 721/1.086 thủ tục hành chính

Ngày đăng 28/03/2024
Văn phòng Chính phủ cho biết, đến nay các bộ, ngành đã đơn giản hóa 721/1.086 thủ tục hành chính được giao tại các nghị quyết chuyên đề của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, đạt 66%;...

Nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều hành, tạo đột phá trong cải cách hành chính năm 2024

Ngày đăng 18/03/2024
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng ban Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ vừa ký Quyết định ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ. 

Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương ban hành Kế hoạch triển khai Đề án 06 năm 2024

Ngày đăng 13/03/2024
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương ban hành Kế hoạch triển khai Đề án 06 năm 2024, thời gian hoàn thành trước ngày 15/3/2024. Chậm nhất trong năm 2024 phải hoàn thành việc nâng cấp hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu của Nghị định số 107/2021/NĐ-CP của Chính phủ.

Kiện toàn tổ chức bộ máy tham mưu, giúp việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới các cấp hiện nay

Ngày đăng 13/03/2024
Thực hiện Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2021-2025, thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, cùng với sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là sự đồng tình, hưởng ứng và tham gia tích cực của mọi tầng lớp nhân dân, Chương trình đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. 

Các bộ, ngành, địa phương cần chủ động phối hợp để xử lý khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính

Ngày đăng 06/03/2024
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Trưởng ban Ban Chỉ đạo thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030 yêu cầu các bộ, ngành trung ương cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các địa phương để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong việc xây dựng Đề án sắp xếp của từng địa phương cũng như quá trình thực hiện sắp xếp ĐVHC; làm tốt công tác truyền thông dưới nhiều hình thức nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao cả về nhận thức và hành động trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các chủ thể có liên quan, bị tác động và ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp.

Tiêu điểm

Sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam

Trong thời đại cách mạng công nghiệp hiện nay, với chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, nền kinh tế Việt Nam cơ bản đã vượt qua giai đoạn khó khăn, đạt được tốc độ tăng trưởng cao, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động cả chiều thuận lợi và không thuận lợi đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, vì vậy cần tiếp tục có những nghiên cứu, đánh giá sự tác động đó để có giải pháp phù hợp với chính sách an sinh xã hội một cách hiệu quả. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với công tác an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.