Hà Nội, Ngày 25/04/2024

Kết quả điều tra cơ sở hành chính năm 2021 và những vấn đề đặt ra đối với việc tinh gọn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

Ngày đăng: 03/11/2022   13:16
Mặc định Cỡ chữ
Cuộc điều tra cơ sở hành chính năm 2021 đã rút ra những bài học kinh nghiệm thành công và cả những hạn chế, trong đó có những bài học kinh nghiệm tốt để tiếp tục triển khai thực hiện chính sách sắp xếp, tinh gọn bộ máy hành chính và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Ảnh minh họa

Tại Quyết định số 43/2016/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình điều tra thống kê quốc gia, Bộ Nội vụ được giao chủ trì thực hiện cuộc điều tra cơ sở hành chính (CSHC). Theo quy định, chu kỳ điều tra CSHC là 5 năm (tiến hành vào các năm có số tận cùng là 1 và 6). Tham gia phối hợp điều tra CSHC có các Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê), Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng thực hiện. 

Kết quả điều tra cơ sở hành chính năm 2021

Năm 2021 là năm đầu tiên Bộ Nội triển khai điều tra CSHC trên phạm vi cả nước nhằm thu thập thông tin cơ bản về số cơ sở hành chính, số lượng, trình độ của lực lượng lao động đang làm việc trong các cơ sở hành chính; kết quả thu, chi của cơ sở hành chính để phục vụ việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách quản lý, kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành, vùng, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực... đáp ứng yêu cầu quản lý của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.

Nội dung điều tra CSHC tập trung vào các nhóm thông tin: 1) Nhóm thông tin nhận dạng đơn vị điều tra; 2) Nhóm thông tin về lao động, thu nhập của người lao động; 3) Nhóm thông tin về kết quả thu, chi; 4) Nhóm thông tin về ứng dụng công nghệ thông tin; 5) Nhóm thông tin theo chuyên đề cần đánh giá, tùy thuộc yêu cầu thực tế. Trong cuộc điều tra CSHC năm 2021, Bộ Nội vụ triển khai thực hiện thu thập thông tin từ tháng 3/2021 đến tháng 12/2021. Đối tượng điều tra là các đơn vị hành chính, tổ chức chính trị - xã hội gồm các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có sử dụng con dấu và tài khoản riêng. Cụ thể gồm hai nhóm đối tượng: các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp từ Trung ương đến địa phương; các tổ chức chính trị - xã hội, gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

Về số lượng các cơ sở hành chính, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội: tính đến ngày 31/12/2020 cả nước có 32.292 CSHC, cơ quan của Đảng tổ chức chính trị - xã hội (gọi tắt là CSHC). Trong đó, cơ quan thuộc hệ thống lập pháp (Quốc hội và cơ quan của Quốc hội) là 53, chiếm 0,16%; cơ quan hành pháp (Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp và cơ sở thuộc hệ thống cơ quan hành pháp) là 25.507, chiếm 78,99%; cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ sở thuộc tòa án, viện kiểm sát) là 1.586, chiếm 4,91%; cơ quan thuộc khối Đảng là 1.020, chiếm 3,16%; cơ sở thuộc tổ chức chính trị - xã hội là 4.126, chiếm 12,78%. 

Về các đơn vị hành chính: tính đến hết năm 2020, số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh là 63, số đơn vị hành chính cấp huyện là 713 (giảm 06 đơn vị so với năm 2016), số đơn vị hành chính cấp xã là 10.614 (giảm 548 đơn vị so với năm 2016). Đây là kết quả của việc thực hiện quyết liệt chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo quan điểm của Đảng và Nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Về số lao động trong các CSHC: tính đến ngày 31/01/2020, tổng số lao động trong các cơ sở hành chính là 1.382 nghìn người. Trong đó, số lao động trong đơn vị thuộc hệ thống hành pháp là 1.276,7 nghìn người, chiếm 92,38%; số lao động trong cơ quan của Đảng là 39,9 nghìn người, chiếm 2,89%; trong cơ quan tư pháp là 34 nghìn người, chiếm 2,46%; trong cơ quan tổ chức chính trị - xã hội là 29,1 nghìn người, chiếm 2,26%; trong cơ quan lập pháp là 2,2 nghìn người, chiếm 0,16%. Tính bình quân lao động/CSHC năm 2021 là 43 người/cơ sở. Trong đó, bình quân lao động trong cơ quan hành pháp cao nhất và đạt 50 người/cơ sở; cơ quan lập pháp là 43 người/cơ sở; cơ quan Đảng là 39 người/cơ sở; cơ quan tư pháp là 21 người/cơ sở; cơ quan tổ chức chính trị - xã hội là 07 người/cơ sở.

Về đặc trưng lao động trong các CSHC:

Về trình độ người đứng đầu các CSHC: theo kết quả điều tra, trình độ người đứng đầu các CSHC đạt trình độ từ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ rất cao. Trong đó, trình độ đại học trở lên là 31.597 người, chiếm tỷ lệ 97,85%; trình độ thạc sĩ là 8.508 người, chiếm tỷ lệ 26,35%; tiến sĩ là 526 người, chiếm 1,63%; trình độ trung cấp và cao đẳng là 606 người, chiếm 1,88%; sơ cấp và chưa qua đào tạo 89 người, chiếm 0,28%. 

Về tỷ lệ lao động phân theo giới tính trong các CSHC: số lượng người đứng đầu là nữ trong các CSHC có 4.955, chiếm 15,34%. Số lao động nữ trong các CSHC có 313,2 nghìn, chiếm 22,66%. Phân theo khu vực: Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ nữ cao nhất, chiếm 24,15%; thấp nhất là Tây Nguyên với 19,7 nghìn lao động nữ, chiếm 19,89% tổng số lao động trong CSHC ở khu vực và 6,28% so với cả nước. Điều này cho thấy, lao động nữ làm việc trong CSHC không cao so với kỳ vọng.

Phân theo độ tuổi: lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu lao động trong các CSHC. Lao động từ nhóm 16 đến 45 tuổi là 1.085 nghìn người, chiếm 78,51%. Phân theo vùng kinh tế: khu vực Tây Nguyên có lao động trẻ trong CSHC cao nhất, chiếm 82,83%; Đông Nam Bộ là 80,93%, Trung du và miền núi phía Bắc là 80,25%, Đồng bằng sông Cửu Long là 77,71%, Đồng bằng sông Hồng là 77,48%; Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung thấp hơn với 75,99%. 

Về trình độ đào tạo của lao động trong các CSHC: theo kết quả điều tra, trình độ đào tạo của lao động trong các CSHC ngày càng được nâng cao, số lượng lao động có trình độ đại học, sau đại học chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động. Trong đó, lao động có trình độ đại học trở lên là 807,1 nghìn lao động, chiếm 58,4%. Tuy nhiên, vẫn còn 170,6 nghìn lao động chưa qua đào tạo, chiếm 12,3%. Trong đó, Tây Nguyên có tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao nhất, lên tới 22,8% với 22,5 nghìn lao động; Đông Nam Bộ và Trung du, miền núi phía Bắc còn 15% lao động chưa qua đào tạo. Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo thấp nhất với 31,5 nghìn lao động, chỉ chiếm 7,9%. Điều này đặt ra yêu cầu, đối với với khu vực Tây Nguyên cần tiếp tục chú trọng đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ, công chức.

Về ngạch công chức: lao động được xếp ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương có 30,2 nghìn người, chiếm tỷ lệ 2,21%; chuyên viên chính và tương đương là 262,4 nghìn người, chiếm 19,2%; chuyên viên và tương đương là 581,3 nghìn người, chiếm 42,5%; cán sự là 239 nghìn người, chiếm 17,5%; nhân viên là 255,9 nghìn người, chiếm 18,7%. Tính bình quân trong một CSHC, mỗi cơ quan có tỷ lệ chuyên viên chính là 0,9; chuyên viên cao cấp là 8,1; chuyên viên là 18,0, cán sự là 7,4; nhân viên là 7,9.

Về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các CSHC: số CSHC sử dụng dịch vụ internet phát triển mạnh mẽ, với 30.572 cơ sở, chiếm 93,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ CSHC có cổng thông tin/trang thông tin điện tử riêng chỉ đạt 26,1%. Trong đó, cơ quan thuộc hệ thống lập pháp đạt tỷ lệ cao nhất cũng chỉ chiếm 28,9%; cơ quan hành pháp là 28,6%; cơ quan Đảng gần 25%; cơ quan tư pháp là 16%; cơ quan tổ chức chính trị xã hội là 15%. 

Những vấn đề đặt ra đối với việc tinh gọn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức qua kết quả điều tra 

Một là, kết quả điều tra CSHC năm 2021 cho thấy xu hướng giảm số lượng các CSHC, giảm các đơn vị hành chính trên cả nước. Đây là kết quả tất yếu của việc Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị quyết liệt thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Những kết quả này là tích cực, làm giảm số lượng các CSHC, đơn vị hành chính; tinh gọn bộ máy, giảm số lao động trong các CSHC, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền hành chính tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhu cầu đời sống người dân ngày càng nâng cao, khối lượng các công việc hành chính ngày càng tăng… đòi hỏi chất lượng hoạt động của các CSHC, đơn vị hành chính phải ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại đang đặt ra thách thức trong cách tiếp cận thiết kế, vận hành hệ thống các đơn vị hành chính, CSHC vừa tinh gọn nhưng vừa đáp ứng yêu cầu khối lượng công việc và chất lượng công việc ngày càng tăng.

Mặt khác, số lượng các CSHC, số lượng lao động trong hệ thống các cơ quan hành pháp, tư pháp, cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội là khác nhau do đặc thù về hoạt động và quy mô khối lượng công việc. Do đó, cần có cách tiếp cận một cách hệ thống và khoa học về tổ chức trong việc đặt ra các mục tiêu tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị, nhằm tránh hiện tượng cào bằng và chạy theo số lượng cơ học. Việc đề xuất các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện trong tổ chức bộ máy phải dựa trên cơ sở của khoa học tổ chức và tư duy thiết kế vận hành hệ thống, để bảo đảm bộ máy được tinh gọn, nhưng chuyên nghiệp, hiện đại. Tránh sự chủ quan, duy ý chí, áp đặt và chạy theo thành tích trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy hành chính nhà nước.

Hai là, xét về trình độ lao động theo tiêu chí bằng cấp, số lượng lao động trong các CSHC có trình độ đào tạo đại học và trên đại học ngày càng tăng cao (trên 58,4%). Đặc biệt, người đứng đầu trong các CSHC có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ rất cao (trên 97,85%). Nhìn tổng thể, số lượng lao động trong các CSHC, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chuyên môn, bằng cấp ngày càng tăng, bảo đảm yêu cầu về tiêu chuẩn, điều kiện theo các quy định của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ thể hiện ở trình độ chuyên môn, bằng cấp, mà còn phải thực tài, thực tâm, năng lực giải quyết công việc mới đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đang đặt ra trong quá trình xây dựng nền công vụ hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân. Do đó, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói riêng và công tác cán bộ nói chung trong giai đoạn tới cần có cách tiếp cận mới, dịch chuyển từ chú trọng yêu cầu về bằng cấp chuyên môn (do cơ bản đã đáp ứng đạt chuẩn và trên chuẩn) sang chú trọng tới việc xây dựng và hoàn thiện khung năng lực đối với từng vị trí công việc trong các CSHC.

Từ cách tiếp cận khung năng lực của đội ngũ cán bộ, công thức trong các CSHC sẽ thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thiện đề án vị trí việc làm, đánh giá năng lực cán bộ, công chức; thực hiện phát triển đội ngũ cán bộ, công chức; tạo động lực làm việc; xây dựng chương trình và triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo khung năng lực đã được ban hành để khắc phục những bất cập, hạn chế về năng lực của cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền công vụ hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân; thực hiện hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, đối với 170,6 nghìn lao động (chiếm 12,3%) trong các CSHC chưa qua đào tạo, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo trong các CSHC vẫn còn tới 22,8%, cần tiếp tục quan tâm đào tạo cho đội ngũ này về chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu công việc.

Ba là, tỷ lệ lao động nữ trong các CSHC còn thấp, chỉ chiếm 22,66%, tỷ lệ người đứng đầu là nữ trong các CSHC cũng không cao, chỉ có 15,34%. Điều đó cho thấy, việc thực hiện các mục tiêu về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm bình đẳng giới đòi hỏi cần có những giải pháp quyết liệt và quan tâm hơn nữa của toàn hệ thống chính trị.

Bốn là, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét theo ngạch công chức. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương, chuyên viên và tương đương, cán sự, nhân viên trong một đơn vị CSHC cũng đặt ra yêu cầu trong việc xác định tỷ lệ chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, cán sự và nhân viên trong toàn hệ thống và trong từng CSHC cũng cần được tính toán khoa học, hợp lý làm cơ sở trong việc định biên nhân sự và cơ cấu ngạch công chức trong bối cảnh hiện nay.

Năm là, việc sử dụng dịch vụ internet phát triển mạnh mẽ, trở nên phổ biến trong các CSHC. Tuy nhiên, tỷ lệ các đơn vị CSHC có cổng thông tin/trang thông tin điện tử riêng chỉ đạt 26,1% vẫn còn thấp. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm cho sự dịch chuyển từ liên kết dọc mang tính thứ bậc, mệnh lệnh uy quyền dễ độc đoán, chuyên quyền, quan liêu và cứng nhắc, áp đặt sang liên kết ngang với sức mạnh kết nối vượt ra khỏi không gian và thời gian có tính chất hợp tác, phối hợp, bình đẳng, đề cao tính liên kết cá nhân, liên kết nhóm nhiều hơn. Từ đó khả năng kết nối cộng đồng, hiệu lực lan tỏa, cộng hưởng nhanh, hiệu quả hơn so với liên kết dọc. Vì vậy, tính dân chủ của xã hội cao hơn, tiếng nói của các chủ thể trong xã hội vào quản trị địa phương sẽ nhiều hơn, bình đẳng hơn. Một trong những phương thức để thúc đẩy tương tác, kết nối nhiều hơn, tạo nên không gian trải nghiệm khách hàng cho công dân, tổ chức khi thực hiện các công việc hành chính tại các CSHC là thực hiện chuyển đổi số - hướng tới mô hình phi địa giới hành chính - mô hình hành chính không giấy tờ. Do đó, các đơn vị CSHC cần quan tâm và quyết liệt hơn trong tiến trình thực hiện chuyển đổi số để thích ứng với bối cảnh hiện nay ở trong nước và thế giới./.

-------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Nội vụ, Ban Chỉ đạo điều tra cơ sở hành chính Trung ương, Thông cáo báo chí Kết quả chính thức Điều tra cơ sở hành chính năm 2021, ngày 26/6/2022.

 

PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Để Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đi vào cuộc sống và thực hiện có hiệu quả

Ngày đăng 20/04/2024
Với vị trí, vai trò quan trọng của cơ sở, để thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân có hiệu quả, phải thực hiện dân chủ từ cơ sở. Trong những năm qua, dân chủ trực tiếp ở cơ sở được mở rộng, Nhân dân được bàn và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình; quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân được bảo vệ. Việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở... góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát cần phù hợp với đặc điểm và yêu cầu giám sát trong mô hình chính quyền đô thị

Ngày đăng 15/04/2024
Quan tâm đến việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND), đặc biệt là vấn đề giám sát của HĐND trong mô hình chính quyền đô thị, PGS.TS Lê Minh Thông, ĐBQH khóa XIII cho rằng, cần nghiên cứu sửa đổi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND phù hợp với đặc điểm và yêu cầu giám sát trong mô hình chính quyền đô thị, tạo cơ sở pháp lý cụ thể hơn để HĐND làm tốt chức năng giám sát của mình.

Phát huy vai trò của các tôn giáo trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Tây Ninh hiện nay

Ngày đăng 09/04/2024
Bài viết khái quát tình hình, kết quả và những hạn chế trong phát huy vai trò của các tôn giáo tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Tây Ninh. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của các tôn giáo tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Tây Ninh trong thời gian tới.

Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Ngày đăng 01/04/2024
Xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Đặc biệt, những biến động nhanh chóng, phức tạp của thực tiễn đã và đang đặt ra yêu cầu đối với cán bộ phải giỏi về chuyên môn và có tâm thế năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Muốn đạt được điều đó, cần phải có những đánh giá tổng thể về quan điểm, thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm hiện nay; từ đó đề xuất định hướng giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Đặc điểm lứa tuổi và vai trò của Đoàn Thanh niên trong thực hiện chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

Ngày đăng 25/03/2024
Để tiếp tục triển khai thực hiện hiệu lực, hiệu quả những nội dung tại Nghị định số 13/2021/NĐ-CP quy định về đối thoại với thanh niên; cơ chế, chính sách và biện pháp thực hiện chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, cần làm rõ sự tác động của đặc điểm các lứa tuổi và dự báo xu hướng tâm sinh lý, hành vi… để tạo ra các yếu tố ảnh hưởng tích cực tới quá trình thực thi chính sách. Trong đó, vai trò trực tiếp của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp là rất quan trọng, nhằm gia tăng hiệu quả và tác động xã hội theo mục tiêu của Nhà nước đã đề ra đối với thanh niên.