Hà Nội, Ngày 25/04/2024

Một số bất cập, hạn chế trong giám sát công tác phòng, chống tham nhũng tại các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng

Ngày đăng: 10/07/2022   23:11
Mặc định Cỡ chữ
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả và phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô trong công tác phòng, chống tham nhũng thì việc tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với công tác phòng, chống tham nhũng tại các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng đang là yêu cầu cấp thiết ở Việt Nam. Bài viết chỉ ra một số bất cập, hạn chế để có giải pháp phù hợp, hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng của các cơ quan chuyên trách này.
Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2012 - 2022.

Hiện nay, tình hình tham nhũng vẫn diễn ra phức tạp với biểu hiện ngày càng tinh vi, xảy ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn. Bên cạnh đó, tham nhũng xảy ra trong cả việc hoạch định chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Điều đáng quan tâm là, tham nhũng xảy ra ngay trong các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, các cơ quan bảo vệ pháp luật được phát hiện ngày càng nhiều, tiềm ẩn nguy cơ “lợi ích nhóm”, “sân sau”, có sự móc nối, liên kết tinh vi giữa một số tổ chức, cá nhân với người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước để trục lợi, tham nhũng. 

Trong những nhiệm kỳ vừa qua, Quốc hội đã tăng cường giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, hoạt động của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng trên tất cả các phương diện: xét báo cáo, chất vấn; giám sát chuyên đề; giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người đứng đầu các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng - những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; tiến hành giải trình làm rõ trách nhiệm… Tuy nhiên, hiệu lực, hiệu quả giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đặt ra. Qua hoạt động thực tiễn, bài viết phân tích một số hạn chế để có giải pháp tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả giám sát đối với công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.

Về chương trình hoạt động giám sát

Việc xây dựng và quyết định chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội còn một số hạn chế. Đó là, việc xác định những vấn đề, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên tập trung lực lượng để giám sát trong một số trường hợp còn thiếu thông tin; chưa sát với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Do việc đánh giá tình hình tham nhũng, thực trạng của công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng là vấn đề khó, nhạy cảm, thiếu những thông tin cơ bản, cần thiết cho việc đề xuất chủ đề, lĩnh vực, đối tượng đưa vào chương trình giám sát, nên ý kiến của các đại biểu Quốc hội thường khác nhau, khó thống nhất.

Trong triển khai thực hiện chương trình, còn thiếu sự theo dõi sát sao, chỉ đạo, phối hợp thường xuyên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội nên một số trường hợp còn trùng lặp về thời gian, địa điểm, địa phương tiến hành giám sát, gây khó khăn cho các đối tượng chịu sự giám sát trong chuẩn bị nội dung, bố trí người có thẩm quyền, am hiểu vấn đề để cùng làm việc với các đoàn.

Phương thức giám sát xem xét báo cáo

Trong điều kiện Quốc hội chỉ họp định kỳ 02 lần/năm, nhiều đại biểu hoạt động theo chế độ không chuyên trách, lại kiêm nhiệm nhiều công việc ở các địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị nên ít có điều kiện tiếp xúc với hoạt động của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng ở Trung ương, do đó chưa mạnh dạn, tự tin đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trình báo cáo.

Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể về những nội dung bắt buộc mà các báo cáo phải đề cập tới và phân tích, đánh giá, tìm ra nguyên nhân, đề ra các giải pháp. Việc gửi báo cáo và các tài liệu kèm theo không ít trường hợp chưa bảo đảm thời gian theo đúng quy định, dẫn đến quỹ thời gian dành cho việc nghiên cứu của các đại biểu Quốc hội còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng chất vấn, nhất là những vấn đề liên quan đến trách nhiệm, năng lực của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng. Việc dành thời gian xem xét báo cáo theo quy định tại Kỳ họp Quốc hội còn hạn chế, nhất là trong việc dành riêng để thảo luận về báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng mà thường được lồng ghép thảo luận chung trong báo cáo về kinh tế - xã hội. 

Công tác thẩm tra đối với báo cáo hàng năm còn thiếu những nguồn thông tin xác thực, làm căn cứ để đối chiếu, có cơ sở dữ liệu cho việc phân tích, phản biện một cách khách quan, chính xác. Việc thu hút, sử dụng các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý… còn nhiều hạn chế trong việc cung cấp các đánh giá chuyên sâu về những nội dung cần thiết phục vụ cho hoạt động thẩm tra.

Trong những năm qua, việc xem xét các báo cáo được thực hiện dưới dạng Quốc hội thảo luận báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng, báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước. Vì vậy, khi thảo luận, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng các báo cáo còn thiếu thông tin, thiếu phân tích, đánh giá, nhận định, nguyên nhân, giải pháp. Đây cũng chính là việc thiếu các chuẩn mực để đại biểu Quốc hội sử dụng làm căn cứ xem xét, đánh giá các báo cáo, cũng như việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng. Việc thảo luận thường tập trung vào nêu thực trạng tham nhũng, công tác phòng, chống tham nhũng, hoạt động của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, nhất là các vấn đề còn tồn tại, hạn chế, yếu kém… mà ít đi vào phân tích, đánh giá sâu việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, nhất là về hiệu lực, hiệu quả, việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của các cơ quan này. Do đó, việc xác định trách nhiệm cũng chỉ dừng lại ở những đánh giá chung chung, thiếu sự rõ ràng, cụ thể, minh bạch. Làm cho hoạt động xem xét báo cáo chưa phát huy được đầy đủ hiệu lực, hiệu quả của một phương thức giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp.

Phương thức giám sát chất vấn

Trong một số kỳ họp Quốc hội, việc bố trí thời gian cho hoạt động chất vấn chưa phù hợp về thời điểm và thời lượng. Báo cáo của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng về nhóm vấn đề chất vấn thường gửi chậm, ảnh hưởng đến việc nghiên cứu của đại biểu Quốc hội. Nhiều báo cáo chỉ nêu kết quả thực hiện và phương hướng, giải pháp, ít phân tích hạn chế, bất cập, thiếu sót, vi phạm, trách nhiệm của người bị chất vấn với tư cách là người đứng đầu; đối với những hạn chế, giải pháp ít nêu thời hạn cụ thể giải quyết, khắc phục. Những người đứng đầu các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng tham gia giải trình, làm rõ thêm vấn đề chất vấn do chuẩn bị báo cáo chưa kỹ nên cũng chưa cung cấp thêm nhiều thông tin đa chiều về vấn đề chất vấn. Thời gian dành cho hoạt động chất vấn chưa bảo đảm tất cả các chất vấn của đại biểu Quốc hội được tiến hành trực tiếp tại kỳ họp. Việc bố trí trình bày báo cáo kết quả giám sát kiến nghị của cử tri tại phiên họp chất vấn là chưa phù hợp do nội dung báo cáo, không có sự gắn kết đối với nội dung chất vấn, nhất là về công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng.

Khi thực hiện quyền chất vấn đang có sự chồng chéo trong việc thực hiện quyền này với quyền đại biểu Quốc hội yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền trả lời về những vấn đề mà đại biểu quan tâm, theo đó quyền chất vấn và quyền yêu cầu trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm về mặt hình thức đều là dạng đặt câu hỏi nhưng khác nhau ở mục đích, yêu cầu, trình tự, thủ tục tiến hành, đặc biệt là hậu quả pháp lý. Việc yêu cầu trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm thường chỉ đặt ra nhằm thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động của đại biểu, trong khi đó, chất vấn là một hoạt động quyền lực nhằm làm rõ và quy kết trách nhiệm, kết quả trả lời chất vấn dẫn đến việc có áp dụng hay không áp dụng các hình thức chế tài pháp lý của Nhà nước đối với người bị chất vấn và buộc người bị chất vấn phải đưa ra các giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém, thiếu sót, vi phạm.

Việc tranh luận giữa các đại biểu hoạt động chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với các đại biểu hoạt động không chuyên trách, kiêm nhiệm các chức vụ ở các cơ quan hành pháp và tư pháp về những vấn đề chất vấn trở nên gay gắt. Về bản chất đây không phải tranh luận giữa đại biểu Quốc hội với nhau mà là giữa đại biểu với những người hoạt động trong các cơ quan hành pháp, tư pháp, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng. Trong trường hợp này, chất vấn trở nên thiếu tính khách quan, minh bạch về trách nhiệm.

Vẫn còn nhiều đại biểu đặt câu hỏi dài, không rõ ý, câu hỏi có nội dung là các sự kiện, vụ việc, vụ án cụ thể, chi tiết, phức tạp dẫn đến vừa không trọng tâm, vừa mất nhiều thời gian trả lời. Một số đại biểu chất vấn nằm ngoài phạm vi chất vấn, còn trùng lặp nội dung, không đi thẳng vào vấn đề, thông tin đưa ra thiếu chính xác, nêu nhiều sự kiện không mang tính khái quát, tổng hợp. Việc tranh luận chưa có quy định cụ thể, do đó, vẫn có trường hợp các đại biểu lại tranh luận gay gắt với nhau về nội dung chất vấn do còn thiếu thông tin cơ bản, hoặc đăng ký tranh luận nhưng lại đặt câu hỏi chất vấn. Chủ tọa điều hành phiên chất vấn trong một số trường hợp do áp lực về thời gian nên đã tăng số đại biểu được chất vấn từ 06 đến 08 đại biểu, thậm chí 13 - 20 đại biểu cùng một đợt hỏi. Trong khi một lần đứng lên chất vấn nhiều câu hỏi thì người được chất vấn ghi chép không kịp, không hết ý hoặc ghi không chính xác các nội dung câu hỏi, dẫn đến trả lời không trọn vẹn hoặc tồn đọng nhiều câu hỏi mà không được trả lời...

Việc ra nghị quyết về việc chất vấn và trả lời chất vấn có một hạn chế rất lớn là không xác định rõ trách nhiệm, phạm vi trách nhiệm đối với từng người trả lời chất vấn. Nội dung nghị quyết chất vấn còn chung chung, không có định lượng và mốc thời gian, ít các chỉ tiêu, chỉ số để có thể tiếp tục theo dõi, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Việc triển khai một số nội dung trong các nghị quyết chất vẫn còn chậm hoặc chưa hiệu quả, chưa nghiêm theo yêu cầu của Quốc hội, nhưng việc xem xét trách nhiệm chưa được quan tâm đúng mức. Đại biểu Quốc hội còn chưa liên kết giữa việc xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn với việc kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Phương thức giám sát chuyên đề

Trên thực tế, có sự không thống nhất trong việc tổ chức và tiến hành hoạt động của đoàn giám sát chuyên đề và đoàn khảo sát thực tiễn. Do đó, thủ tục, trình tự tiến hành, thẩm quyền cũng như hậu quả pháp lý thường không rõ ràng và có sự nhầm lẫn. Điều đáng lưu ý là, kết quả giám sát chuyên đề của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội qua phương thức tổ chức các đoàn giám sát đối với công tác phòng, chống tham nhũng, cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng ít được bố trí thời gian để nghe, xem xét, thảo luận, cho ý kiến, ra nghị quyết định hướng hoạt động. Mặt khác, do không có sự liên kết chặt chẽ giữa phương thức giám sát chuyên đề với các phương thức giám sát khác trong việc xem xét, đánh giá trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả, việc tuân thủ và chấp hành pháp luật trong công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng nên hiệu quả hoạt động giám sát chuyên đề chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. 

Việc huy động các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý… có chuyên môn sâu, nhiều kinh nghiệm tham gia đoàn giám sát còn hạn chế, dẫn đến một số đánh giá phụ thuộc vào chất lượng báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát; có đánh giá còn thiếu tính khách quan, tính toàn diện, tính thực tiễn, việc cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan, cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án còn chậm hoặc thông tin không thống nhất, thiếu chính xác. Một số cơ quan chịu sự giám sát chưa thực hiện nghiêm các kiến nghị, yêu cầu của đoàn giám sát. Việc sử dụng các thông tin trong hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để phục vụ cho giám sát chuyên đề về công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng chưa tốt, chưa hiệu quả, còn bị động, lúng túng trong việc phân tích, đánh giá, phản biện chính sách, pháp luật cũng như hiệu lực, hiệu quả hoạt động. 

Việc giám sát đối với một số vụ việc, vụ án cụ thể, nhất là giải quyết đối với các vụ có khiếu nại, tố cáo, kiến nghị kéo dài… chưa có sự thống nhất về nhận thức trong tổ chức thực hiện. Có ý kiến cho rằng, giám sát của Quốc hội phải tập trung vào các vấn đề có tính phổ biến, ở tầm vĩ mô, những vấn đề mà đông đảo cử tri và Nhân dân cả nước quan tâm. Do đó, giám sát đối với sự việc, vụ án cụ thể phải phục vụ cho mục đích này và chỉ giới hạn ở việc xem xét tính hợp pháp, việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của vấn đề đã được giải quyết, vì nếu các cơ quan của Quốc hội đưa ra phán xét, kết luận đúng, sai của vụ việc, vụ án đã được giải quyết thì vô hình chung đã can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành pháp, tư pháp, các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, dẫn tới trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, nếu không giám sát đối với các vụ việc, vụ án cụ thể sẽ không đủ minh chứng, chứng cứ, thông tin cần thiết cho việc giám sát chuyên đề ở tầm vĩ mô và sẽ là quan liêu khi Quốc hội lại không xem xét đến các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri, mà các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị này hầu hết lại là những vụ việc, vụ án cụ thể.

Đây là vấn đề cần được quy định cụ thể hơn trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Do thiếu thông tin nên việc làm rõ trách nhiệm cũng như các kiến nghị thường chung chung; việc gửi tài liệu báo cáo cho đoàn giám sát còn chậm, có trường hợp chỉ gửi trực tiếp tại cuộc làm việc hoặc chỉ gửi dự thảo báo cáo; nội dung báo cáo còn sơ sài, ít số liệu chứng minh, thiếu ý kiến đánh giá, nhận định nên báo cáo của đoàn giám sát cũng không có điều kiện phản ánh, đánh giá hết các mặt công tác. Việc tham gia đoàn giám sát của các thành viên trong một số trường hợp chưa tích cực, chưa chủ động nghiên cứu, tìm hiểu về nội dung giám sát; các cơ quan hữu quan làm việc với đoàn cũng chưa bảo đảm đúng thành phần, đủ cơ cấu, số lượng, nắm vững chuyên môn cần thiết.

Phương thức giám sát văn bản quy phạm pháp luật

Mục tiêu của giám sát không chỉ làm rõ trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát, mà quan trọng hơn là thông qua giám sát để tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật. Có thể nói, giám sát văn bản quy phạm pháp luật hiện nay đang là khâu yếu và hiệu quả thấp nhất so với các phương thức giám sát khác. Thực tiễn cho thấy, giám sát văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức, nguồn nhân lực, thời gian với trí tuệ, năng lực và trách nhiệm cao thì mới có thể thực hiện được. Việc phát hiện văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp hoặc trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh chủ yếu phải thông qua giám sát hoạt động, giám sát việc tuân thủ, chấp hành và áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có hiệu quả.

Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật chưa được kết nối chặt chẽ với hoạt động giám sát khác nên hiệu quả không cao; sự phối hợp chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội; sự chỉ đạo, phối hợp hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội còn chưa sâu sát, cụ thể, khoa học. Sự không hợp lý về cơ cấu tổ chức, phân công nhiệm vụ của Quốc hội còn được thể hiện trong việc Quốc hội chưa có một ủy ban chịu trách nhiệm chủ trì, đầu mối trong giám sát văn bản quy phạm pháp luật. Năng lực nghiên cứu, phát hiện, kiến nghị hoạt động giám sát văn bản chưa tốt, chưa khẳng định rõ tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của các văn bản thuộc phạm vi giám sát. Cách thức tiến hành chưa chủ động, chủ yếu dựa trên cơ sở báo cáo tình hình thực hiện của các cơ quan nhà nước và ý kiến của cơ quan chịu sự giám sát, thiếu các thông tin đa chiều mang tính phản biện để làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, chính xác. Điều kiện bảo đảm, nguồn nhân lực phục vụ cho công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ, kịp thời và chưa tương xứng; việc bố trí thời gian và nhân sự theo dõi công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế, việc chỉ đạo thực hiện chưa được chú trọng.

Về mặt nhận thức cũng như trong phân công phạm vi nhiệm vụ giám sát văn bản quy phạm pháp luật còn những hạn chế nhất định. Theo đó, công tác phòng, chống tham nhũng, hoạt động của cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng xảy ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, mà các lĩnh vực đó lại thuộc phạm vi hoạt động do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội phụ trách, nhưng hiện nay giám sát văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng chỉ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội thực hiện.

Phương thức giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân

Mặc dù đã có những nỗ lực, cố gắng, nhưng công tác giám sát việc giải quyết còn nhiều hạn chế, một số Ủy ban của Quốc hội luôn trong tình trạng quá tải; không có điều kiện để nghiên cứu hết, xử lý kịp thời các đơn thư được gửi đến. Hiện nay, công tác này mới dừng lại ở việc tiếp nhận và chuyển đơn thư là chính, chưa đủ điều kiện để thực hiện đầy đủ quyền giám sát, theo dõi, đôn đốc, yêu cầu giải quyết và theo đến cùng về việc xác định, xử lý trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết. Số vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị được nghiên cứu kỹ để thực hiện giám sát trên thực tế là không nhiều. Việc phân định trách nhiệm tiếp nhận và xử lý trong một số trường hợp còn có sự chồng chéo dẫn đến không rõ trách nhiệm giữa các ủy ban hoặc giữa các Ủy ban với Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiếp nhận và xử lý.

Công tác phối hợp, tổ chức tiếp công dân tại địa điểm tiếp công dân của Quốc hội vẫn còn hạn chế, chưa tổ chức được nhiều cuộc tiếp công dân có sự tham gia của các cơ quan của Quốc hội để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri, Nhân dân và tiếp nhận đơn, thư; chưa thực sự gắn kết chặt chẽ việc tiếp công dân với xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu lại, tố cáo, kiến nghị, nhất là những vụ việc đã kiến nghị giám sát đến cùng việc giải quyết. Các quy định của pháp luật về tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn thư gửi tới Quốc hội chưa cụ thể, chưa rõ tiêu chí phân loại, xử lý; cách thức tổ chức thực hiện chưa gắn với trách nhiệm cụ thể và thiếu chế tài xử lý trách nhiệm đối với các cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết. Quốc hội không có đủ điều kiện về thời gian, nguồn nhân lực, cơ chế pháp lý để đi đến cùng việc xử lý trách nhiệm đối với những người không thực hiện đúng các quy định pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. 

Phương thức giám sát lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm 02 lần và đạt kết quả tốt, được cử tri và các đại biểu đánh giá cao về tác dụng, hiệu lực, hiệu quả của phương thức giám sát này. Tuy nhiên, đến Quốc hội khóa XIV việc lấy phiếu tín nhiệm chỉ được tiến hành một lần trong nhiệm kỳ. Có ý kiến cho rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm 01 lần trong nhiệm kỳ không có tác dụng động viên, khích lệ tạo động lực phấn đấu, rèn luyện đạt kết quả công tác tốt cũng như cảnh tỉnh, răn đe, nhắc nhở đối với những người có tín nhiệm thấp. Mặt khác, việc lấy phiếu 01 lần trong nhiệm kỳ chưa đủ cơ sở để đánh giá đầy đủ, toàn diện, hiệu quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Thực tế cho thấy, một số bộ, ngành, lĩnh vực để xảy ra vụ việc, vụ án tham nhũng thuộc lĩnh vực do mình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành nhưng người đứng đầu vẫn có tỷ lệ số phiếu cao ở mức tín nhiệm cao. Người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được lấy phiếu tín nhiệm với ba mức “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm”, “tín nhiệm thấp”. Việc phân chia thành ba mức độ trong lấy phiếu tín nhiệm gây khó khăn cho việc đánh giá, bỏ phiếu, chưa thực sự thể hiện được mức độ tín nhiệm, một số ý kiến cho rằng chỉ nên lấy phiếu tín nhiệm với 02 mức độ là “tín nhiệm” và “không tín nhiệm” sẽ bảo đảm tính khách quan, rõ ràng, minh bạch và chính xác hơn.

Pháp luật cũng chưa quy định cụ thể về việc vận động hành lang trong lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Đây là một thực trạng đặt ra yêu cầu vừa phải hoàn thiện các quy định lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đảm bảo chặt chẽ, khách quan, vừa phải chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện phương thức giám sát này. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân nhưng về cơ bản là do các quy định của pháp luật còn chưa cụ thể để tổ chức triển khai thực hiện trên thực tế. Theo đó, đối với các đại biểu Quốc hội khi kiến nghị phải hội đủ ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới xem xét việc trình Quốc hội tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm. Mặt khác, yêu cầu hội đủ 20% tổng số đại biểu Quốc hội nhưng lại không cho thực hiện cơ chế vận động minh bạch thì quy định về bỏ phiếu tín nhiệm khó triển khai trên thực tế./. 

 

TS Nguyễn Đình Quyền - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII

Phạm Thị Bích Ngọc - Vụ Tư pháp, Văn phòng Quốc hội

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.