Hà Nội, Ngày 28/03/2024

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước

Ngày đăng: 09/06/2022   16:12
Mặc định Cỡ chữ
Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 đã nhấn mạnh một trong những trọng tâm của cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030 là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, đòi hỏi phải được nghiên cứu, đưa ra các giải pháp có tính khả thi cao để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Ảnh minh họa

Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức    

Trong giai đoạn 2011-2020, chính sách, pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) tiếp tục được hoàn thiện theo hướng liên thông, đồng bộ trên tất cả các khâu từ tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch, thăng hạng. Trong đó, trọng tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể, Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06/6/2018 thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 24/10/2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ và các bộ quản lý công chức, viên chức chuyên ngành đã ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản pháp luật về quản lý, phát triển đội ngũ CBCCVC. Qua đó, đảm bảo cho chính sách, pháp luật về quản lý CBCCVC phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn.

Tính đến năm 2021, số lượng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước là 247.344 biên chế (trong đó khối bộ, ngành là 106.836 biên chế; địa phương là 140.508 biên chế), giảm được 27.504 biên chế, tương ứng giảm 10,01% so với năm 2015, đạt mục tiêu giảm tối thiểu 10% theo yêu cầu của Nghị quyết số 39-NQ/TW. Biên chế sự nghiệp năm 2021 là 1.783.174 người (trong đó khối bộ, ngành là 116.698 người; địa phương là 1.666.476 người), giảm 242.703 biên chế, tương ứng giảm 11,98% so với năm 2015, đạt mục tiêu giảm tối thiểu 10% theo yêu cầu của Nghị quyết số 39-NQ/TW. Số biên chế và tinh giản biên chế nêu trên chưa bao gồm số lượng cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và thôn, tổ dân phố có 1.031.851 người, giảm 147.290 người so với năm 2015, tương ứng 12,49%. Cụ thể, cán bộ, công chức cấp xã hiện có 226.210 người, giảm 30.398 người so với năm 2015, tương ứng giảm 11,85%; người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là 171.894 người, giảm 57.698 người so với năm 2015, tương ứng giảm 25,13%; người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố là 633.747 người, giảm 59.194 người so với năm 2015, tương ứng giảm 8,54%(1).

Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ CBCCVC được quan tâm chú trọng thường xuyên. Nếu như trong giai đoạn 2011-2015, tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là gần 2.900.000 lượt người, trong đó bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ là 1.870.000 lượt người, đạt tỷ lệ gần 65% tổng số lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng; thì đến giai đoạn 2016-2020 (tính đến tháng 3/2020), đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 5,4 triệu lượt CBCCVC. Trong đó, có khoảng 697.036 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; 447.181 lượt người được bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước và khoảng hơn 4,2 triệu lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ (gấp hơn 2,3 lần so với giai đoạn 2011-2015).

Theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, tính đến tháng 3/2020, tổng số lượt công chức được đào tạo, bồi dưỡng trong cả giai đoạn 2016-2020 tại các bộ, ngành là 594.654 lượt người và tại các tỉnh, thành phố, số lượng là hơn 1.151.654 triệu lượt công chức. Tổng số viên chức tại các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố được đào tạo, bồi dưỡng cũng tăng đều qua các năm. Năm 2019 có số lượng viên chức được đào tạo, bồi dưỡng tăng gấp 2,7 lần so với năm 2016, từ hơn 419.000 lên hơn 1,1 triệu lượt viên chức(2).

Riêng đối với công chức cấp xã, nếu như năm 2015, tổng số cán bộ, công chức cấp xã có 234.061 người, bình quân 21 người/xã (trong đó, cán bộ cấp xã có 116.043 người, công chức cấp xã có 118.018 người), thì đến tháng 4/2020, tổng số cán bộ, công chức cấp xã có 234.617 người, bình quân 21 người/xã (trong đó, cán bộ cấp xã có 113.672 người, công chức cấp xã có 120.945 người). Theo thống kê đến năm 2018, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức cấp xã như sau: sau đại học là 3,23%; đại học là 58,23%; trung cấp, cao đẳng là 37,86%; sơ cấp và chưa qua đào tạo là 0,89 %. Về trình độ chính trị: cử nhân là 1,02%; cao cấp lý luận là 3,11%; trung cấp lý luận là 48,9%; sơ cấp và chưa qua đào tạo, bồi dưỡng là 28,07%(3).

Nhìn chung, đội ngũ CBCCVC ở nước ta có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng và hệ thống chính trị các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có năng lực hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế cần được khắc phục, đó là: đội ngũ CBCCVC có số lượng lớn, nhưng chất lượng chưa đồng đều; vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế... Nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế(4). Chất lượng thực thi công vụ của CBCCVC một số nơi chưa cao, giải quyết công việc liên quan đến người dân, tổ chức, doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu, còn có biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu, việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính chưa nghiêm.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một số cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền... chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.

Ở một số cơ quan, đơn vị, đội ngũ CBCCVC còn tùy tiện trong lề lối làm việc, nặng về hành chính, quan liêu; thói cửa quyền, hách dịch của một bộ phận cán bộ tồn tại khá lâu đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm giảm hiệu quả công việc. Thái độ phục vụ người dân, doanh nghiệp còn chuyển biến chậm; thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng; bộc lộ yếu kém trong giao tiếp, ứng xử. Quy trình giải quyết công việc còn kéo dài; sự phối hợp còn thiếu chặt chẽ; sử dụng thời gian làm việc chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao. Kỷ luật, kỷ cương tuy bước đầu được tăng cường nhưng thực tế có lúc có nơi còn lỏng lẻo, tùy tiện.

Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ 

Một là, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ nói chung và đội ngũ CBCCVC nói riêng vừa là định hướng, vừa là giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sáng tạo và bảo vệ cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà nòng cốt là các cơ quan tham mưu của Đảng, nhất là cơ quan tổ chức, cán bộ. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và người dân; các cơ quan báo chí, truyền thông trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.

Hai là, hoàn thiện chiến lược xây dựng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với tình hình mới.

Cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế pháp luật về CBCCVC, nghiên cứu xây dựng Luật Công vụ và Luật Đạo đức công vụ làm cơ sở cho hoạt động thực thi công vụ, nâng cao trình độ, năng lực của CBCCVC gắn với việc xây dựng chuẩn mực và đề cao đạo đức công vụ. Đồng thời, nghiên cứu đổi mới hình thức tuyển chọn, bổ nhiệm đối với CBCCVC để khắc phục việc tuyển dụng hiện nay còn ít tính cạnh tranh và chưa tuyển dụng được những người thực tài, chuyên môn giỏi vào đúng vị trí việc làm; cần đổi mới việc xây dựng và mô tả công việc của từng vị trí việc làm cụ thể làm cơ sở cho công tác tuyển chọn CBCCVC.

Cần nghiên cứu xây dựng các tiêu chí rõ ràng, minh bạch về yêu cầu công việc đối với từng vị trí việc làm trong từng bộ phận, trong mỗi cơ quan, đơn vị làm cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng CBCCVC. Từ đó, điều chỉnh các vị trí việc làm phù hợp với năng lực, trình độ; xây dựng chế độ khen thưởng, kỷ luật, quy hoạch, bổ nhiệm một cách công khai, công bằng, tạo động lực phấn đấu thực thi nhiệm vụ của CBCCVC. Xây dựng và thực hiện chế độ trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động công vụ để khắc phục một trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của nền hành chính là do giới hạn của quyền lực và phạm vi trách nhiệm đối với từng ngành, từng cơ quan, đơn vị, từng bộ phận và từng CBCCVC chưa rõ ràng, minh bạch. 

Ba là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Hiện nay, năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCCVC ở nhiều nơi còn hạn chế, một bộ phận chưa đáp ứng được những yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu những kỹ năng cần thiết để quản lý lãnh đạo và thực thi công vụ, đặc biệt trong các tình huống, bối cảnh phức tạp. Việc thi hành công vụ nhiều lúc còn thụ động, thiếu tính chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước cũng như hiệu quả cung ứng dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp. Vì vậy, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trang bị kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ CBCCVC đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đạt hiệu quả. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay đối với các cấp, các ngành và địa phương, đặc biệt trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số và phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cần đổi mới cả nội dung và phương pháp để giúp phát triển năng lực lãnh đạo, quản lý, năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo khung năng lực, theo chức danh và vị trí việc làm. Cụ thể, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng theo nhu cầu; kỹ năng xử lý tình huống; tiến hành bồi dưỡng, cập nhật các kiến thức, kỹ năng về quản trị điện tử, quản trị hiện đại, kỹ năng làm việc khoa học với các thiết bị công nghệ hiện đại cho đội ngũ CBCCVC nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả làm việc. Tuy nhiên, để có thể thực hiện hiệu quả công tác chuyên môn trong quá trình thực thi công vụ, đòi hỏi mỗi CBCCVC phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trau dồi về trình độ chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo, quản lý và xử lý công việc một cách khoa học, hiệu quả.

Bốn là, nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Đây là một trong những nội dung quan trọng trong quy trình quản lý đối với đội ngũ CBCCVC, tác động trực tiếp đến việc chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, không ít trường hợp, trong quá trình công tác, một phần do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, một phần thiếu kiểm tra, giám sát chặt chẽ, không được quản lý tốt đã dần bị tha hóa, biến chất. Mặt khác, qua công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ sẽ giúp phát hiện kịp thời những thiếu sót, khuyết điểm, những sai phạm để có biện pháp giáo dục, điều chỉnh, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động công vụ nói chung. Cùng với đó, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đối với cán bộ, công chức, viên chức. Quá trình kiểm tra, giám sát cần phải chú trọng tính toàn diện, kịp thời cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và kết quả hoạt động chuyên môn, sinh hoạt tư tưởng, quản lý và kiểm tra chế độ học tập, tự rèn luyện của cán bộ, công chức, viên chức; kết hợp chế độ kiểm tra thường xuyên, theo định kỳ với kiểm tra đột xuất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao./.

----------------------------------------

Ghi chú:

(1) Bộ Nội vụ, Báo cáo số 135/BC-BNV ngày 11/01/2021 về Tổng kết công tác ngành Nội vụ giai đoạn 2016-2020 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2021.

(2),(3) Chính phủ, Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 về Tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.47.

 

ThS Phan Thị Tuyết Minh - Trường Chính trị Tôn Đức Thắng, tỉnh An Giang

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.

Công chức và vấn đề quản trị bản thân

Ngày đăng 05/03/2024
Cấu trúc quản trị bản thân và điều chỉnh nhận thức, hành vi của công chức trong hoạt động công vụ rất đa dạng. Môi trường công vụ với những hoạt động, quan hệ của công chức tạo nên các yếu tố cấu trúc kiểm soát nhận thức và hành động của họ. Bài viết phân tích các vấn đề tự do và khuôn khổ, quản trị bản thân của công chức hiện nay.

Một số khuyến nghị khi xây dựng chính quyền đô thị tại thành phố Hải Phòng

Ngày đăng 27/02/2024
Chính quyền đô thị là mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với xu hướng của thế giới. Ở Việt Nam, mô hình này đã được triển khai và thí điểm triển khai thực hiện 03 thành phố trực thuộc trung ương gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Hải Phòng là thành phố cảng biển quan trọng, trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học thương mại và công nghệ thuộc Vùng Duyên hải Bắc Bộ. Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và sự phát triển đô thị của thành phố Hải Phòng đã thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; đồng thời đặt ra yêu cầu tất yếu phải xây dựng mô hình chính quyền đô thị để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Bài viết phân tích đặc trưng đô thị của thành phố Hải Phòng, những thuận lợi và khó khăn của thành phố khi xây dựng mô hình chính quyền đô thị và một số khuyến nghị về xây dựng chính quyền đô thị tại thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.

Xác định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra nhà nước trong hoạt động thanh tra - từ thực tiễn hoạt động của Thanh tra Bộ Nội vụ

Ngày đăng 27/02/2024
Thẩm quyền của các cơ quan thanh tra nhà nước trong hoạt động thanh tra là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của cơ quan thanh tra được pháp luật quy định để xem xét, kết luận nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể trong hoạt động thanh tra. Từ thực tiễn của Thanh tra Bộ Nội vụ, bài viết khái quát thực trạng việc thực hiện thẩm quyền và đề xuất một số giải pháp nhằm xác định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra nhà nước trong trong hoạt động thanh tra.  

Tiêu điểm

Chat GPT - Góc nhìn quản lý nhà nước

Sự ra đời của Chat GPT (còn gọi là ChatGPT, chatbot) là bước “đột phá” cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực công nghệ AI, có thể tác động lớn tới hành vi của con người theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù, còn nhiều lo ngại về những tác động tiêu cực tiềm ẩn nhưng nếu tiếp cận phát triển công nghệ này một cách có trách nhiệm và đạo đức thì có thể đảm bảo rằng Chat GPT sẽ trở thành một công cụ hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả lĩnh vực.