Hà Nội, Ngày 17/05/2025

Các yếu tố tác động đến phát triển nhân lực ngành Ngoại giao và một số gợi mở đối với Việt Nam

Ngày đăng: 02/03/2022   09:56
Mặc định Cỡ chữ
Bài viết nghiên cứu quan điểm của các học giả trên thế giới bàn về nhân lực ngành Ngoại giao, đây là những gợi mở đối với Việt Nam trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Ngoại giao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ảnh minh họa

Quan điểm của các học giả quốc tế về nhân lực ngành Ngoại giao

Chính sách phát triển nhân lực ngoại giao

Theo Thomas B.Smith (một học giả và nhà ngoại giao người Anh), có bốn yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới thực hiện chính sách phát triển nhân lực nói chung, nhân lực ngành Ngoại giao nói riêng là bản thân chính sách, cơ quan thực hiện, các nhóm tham gia và các yếu tố thuộc về môi trường chính sách. Trong khi đó, học giả G.Sabatier không chỉ liệt kê ra riêng lẻ mà các yếu tố tác động có mối quan hệ gắn bó với nhau, bên cạnh các yếu tố mang tính khách quan, nằm bên ngoài chu trình thực hiện chính sách, còn có các yếu tố trong nội tại chu trình, cụ thể là đặc điểm của chủ thể thực hiện chính sách. Học giả Luis Ricardo Fraga đã chỉ ra các cơ quan nhà nước, các thiết chế liên bang, các Cục chuyên trách chịu trách nhiệm về ngoại giao và các nội dung ngoại giao, các đối tác ngoại giao, các vấn đề cơ bản trong ngoại giao song phương và đa phương của Hoa Kỳ với các quốc gia và các tổ chức. Đặc biệt, ông đã phân tích sự ảnh hưởng của các nhóm lợi ích đến thực hiện chính sách ngoại giao.

Năng lực của chủ thể và đối tượng chính sách phát triển nhân lực ngoại giao

Hầu hết các chương trình thực hiện chính sách đều dựa trên giả định cho rằng thay đổi hành vi của nhóm mục tiêu sẽ khiến cho vấn đề chính sách sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách phát triển nhân lực thường gặp một số vướng mắc như: khó khăn trong việc đo lường được sự biến đổi trong mức độ nghiêm trọng của vấn đề chính sách; những thách thức trong việc kết nối những thay đổi đó với các điều chỉnh cần thiết để đảm bảo đạt mục đích thay đổi hành vi của các nhóm mục tiêu; rào cản trong phát triển công để đảm bảo các nhóm mục tiêu có thể tạo ra những thay đổi đó. 

Theo Clemons và McBeth, chính mâu thuẫn về giá trị trong tương tác, phối hợp giữa các chính sách công là nguyên nhân gây ra thất bại trong thực hiện mục tiêu chính sách. Do đó, đặt ra yêu cầu mới đối với chủ thể thực hiện chính sách trong bối cảnh thế kỷ XXI, bên cạnh những kỹ năng và kiến thức trước đây, cần được đào tạo bài bản và sử dụng thành thục kỹ năng phân tích mối quan hệ tương tác mạng lưới, truyền thông chính trị quốc tế và quản trị rủi ro trong thực hiện chính sách công.

Môi trường thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngoại giao

Giáo sư Amitav Acharya đã bổ sung các yếu tố tác động và đề cập trực tiếp yêu cầu phát triển nhân lực ngoại giao trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 và từ năm 2021 trở đi. Trong cuốn sách “ASEAN và trật tự khu vực: rà soát cộng đồng an ninh ở các nước Đông Nam Á”, Amitav Acharya lập luận rằng bối cảnh thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao của các nước ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng từ năm 2021 trở đi có nhiều thay đổi về cục diện và cạnh tranh giữa các nước lớn trên một số lĩnh vực với diễn biến mới không thể lường trước, đặc biệt là dịch bệnh COVID-19 nên cần bổ sung các năng lực đặc biệt cho nhân lực thực hiện chính sách ngoại giao, an ninh trong khu vực(1).

Dân số, độ tuổi và những khác biệt trong thế hệ cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực, gián tiếp ảnh hưởng đến thực thi chính sách phát triển nhân lực, quy hoạch nguồn nhân lực.v.v. Mỗi thế hệ đều mang trong mình những nét đặc trưng, phong cách sống và lối tư duy khác với thế hệ  trước. Giờ đây, khi các Millenials đã trở thành lực lượng lao động nòng cốt của xã hội, gen Z cũng đang ngày một khẳng định những giá trị riêng của bản thân với tư cách là thế hệ trẻ. Định nghĩa phổ biến nhất về Millenials (hay gen Y - thế hệ Y) là những người sinh ra trong giai đoạn từ năm 1981 đến 1996. Thế hệ kế cận với họ được gọi là Generation Z (gen Z - thế hệ Z), những người sinh từ năm 1997 đến 2012. Trong khi Millenial là thế hệ đã chứng kiến từng bước sự phát triển của internet, các dịch vụ di động và mạng xã hội, thì gen Z là thế hệ đầu tiên được coi là “người bản địa kỹ thuật số” (digital natives). Cả thế hệ Y và thế hệ Z đều coi trọng việc xây dựng đội nhóm và làm việc nhóm, tạo dựng các mối quan hệ xã hội và thường xuyên tương tác xã hội trên nền tảng số. Tính minh bạch cao là một trong những đặc trưng được cho là sinh ra như một cách để thế hệ Z đối phó với thế giới ảo - nơi ranh giới thật giả ngày càng bị lu mờ(2). 

Các yếu tố tác động đến phát triển nhân lực ngành Ngoại giao Việt Nam đến năm 2030

Ở Việt Nam, nhân lực ngành Ngoại giao là tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia, người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Bộ Ngoại giao, Sở Ngoại vụ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc bộ phận phụ trách ngoại vụ của địa phương và các cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan đại diện của Việt Nam ở các tổ chức quốc tế. Quá trình phát triển của nhân lực ngành Ngoại giao Việt Nam trong bối cảnh hiện nay chịu tác động của một số yếu tố cơ bản sau đây:

Bản chất của chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao

Trong ngành Ngoại giao, bản chất các hoạt động điều chỉnh cách thức thực hiện các chính sách liên quan. Xuất phát từ đặc thù của công tác ngoại giao là vừa tuân thủ theo quy tắc lễ tân khánh tiết quy định chung theo nghi thức quốc tế, vừa đòi hỏi đảm bảo tính bí mật vì lợi ích quốc gia. Như vậy, bản chất vừa mở vừa đóng của công tác đối ngoại, ngành Ngoại giao có tác động nhất định đến quá trình thực thi chính sách ngành, trong đó bao hàm công tác tổ chức cán bộ, phát triển nhân lực. Điều này minh chứng cho mối quan hệ biện chứng giữa bản chất của vấn đề chính sách công và khâu thực hiện các mục tiêu của chính sách đó.

Năng lực của chủ thể và đối tượng của chính sách 

Nhà ngoại giao Việt Nam hoạt động trên nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”. Trong phát triển nhân lực ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ”(3). Đây là những năng lực và phẩm chất mà nhà ngoại giao cần có, đồng thời cũng là mục tiêu hướng đến trong phát triển nhân lực để bồi dưỡng nên những cán bộ, công chức, viên chức của Ngành thích ứng với những xu thế chung, không ngừng tự làm mới bản thân và phấn đấu theo tiến bộ xã hội. Bên cạnh đó, khi xu thế hợp tác quốc tế trở thành một nhu cầu lớn, việc tăng cường lòng tin quốc tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nhiệm vụ ngoại giao nói chung và việc thực hiện chính sách phát triển nhân lực của một quốc gia nói riêng. 

Môi trường thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao 

Môi trường chính trị, pháp lý: chính trị có tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển nhân lực nói chung và nhân lực ngành Ngoại giao nói riêng. Trong bối cảnh ngày nay, những biến đổi sâu sắc của tình hình quốc tế và khu vực, trong đó có nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng trái chiều đến cán bộ và công tác cán bộ, đặc biệt là các âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi. 

Môi trường kinh tế: chính sách công là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước, những thay đổi về kinh tế cũng có tác động lớn đến việc thực hiện chính sách. Môi trường kinh tế, các công cụ điều tiết kinh tế, mức độ ổn định vĩ mô của nền kinh tế… đều có tác động đến mức độ thành công của chính sách. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nền kinh tế có độ mở lớn với hàng loạt các đối tác song phương và đa phương thông qua các hiệp định thương mại, thế và lực của quốc gia trong mối quan hệ với các nước khác, chính sách của các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới đều ảnh hưởng quan trọng đến quá trình thực hiện chính sách phát triển nhân lực Ngoại giao, đặc biệt là ngoại giao kinh tế quốc tế, bảo hộ sở hữu trí tuệ phát minh, sáng chế, mẫu mã kiểu dáng công nghiệp, xuất xứ hàng hóa trong chuỗi cung ứng logistic toàn cầu. 

Môi trường xã hội, văn hóa: những thay đổi về các điều kiện xã hội như cơ cấu dân số, trình độ dân trí, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn giáo… có thể ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách phát triển nhân lực ngành. Hiện nay, vấn đề già hóa dân số, khác biệt trong lựa chọn vùng miền, hoặc giới tính đều ảnh hưởng đến cách thức thực hiện và đối tượng thực hiện chính sách. Những địa bàn cơ quan đại diện thuận lợi về kinh tế, ổn định chính trị, mối quan hệ sâu sắc sẽ có tác động tích cực, thuận lợi đến việc phát triển đội ngũ nhân lực ngành Ngoại giao. Ngược lại, những địa bàn, quốc gia tình hình chính trị diễn biến phức tạp, dịch bệnh, khó khăn về kinh tế sẽ gia tăng những trở lực trong thực hiện phát triển nhân lực ngành. Đồng thời, nền văn hóa của các dân tộc, của địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến việc thiết kế và thực hiện chính sách. Nếu một chương trình được thiết kế không phù hợp với văn hóa của đối tượng, hoặc địa phương thì sẽ không dễ dàng được người dân của địa phương đó chấp thuận. 

Môi trường hành chính công vụ: những kết quả đạt được từ quá trình cải cách hành chính đã tạo điều kiện thực hiện các chính sách ngoại giao nói chung và chính sách phát triển nhân lực ngành nói riêng. Theo kết quả xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) năm 2017, Bộ Ngoại giao xếp thứ 6/19 bộ, cơ quan ngang bộ (tăng 02 bậc so với năm 2016, tăng 04 bậc so với năm 2015). Chỉ số PAR INDEX của Bộ Ngoại giao năm 2019 tăng 3,87 điểm (lên 87.64), trong nhóm 05 bộ, ngành dẫn đầu về cải cách hành chính tốt nhất. Bộ Ngoại giao được đánh giá thực hiện rất tốt và đạt điểm cao trong các lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính (đạt 93,22%; xếp thứ 3/17); công tác xây dựng đội ngũ (đạt 96,30%; xếp thứ 2/17); kiện toàn tổ chức bộ máy (90,45%; xếp thứ 7/17); có nhiều sáng kiến trong các lĩnh vực liên quan… Bộ Ngoại giao đã thực hiện tốt việc cơ cấu đội ngũ công chức, viên chức (CCVC) theo vị trí việc làm; công tác tuyển dụng CCVC có nhiều cải tiến, sáng kiến; công tác thi nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức được thực hiện đầy đủ, kịp thời; công tác bổ nhiệm, đánh giá, xếp loại và đào tạo, bồi dưỡng CCVC thực hiện đúng quy định và yêu cầu. 

Môi trường khoa học và công nghệ: trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, loại hình “ngoại giao ảo” và những cán bộ ngoại giao thực hiện loại hình này chịu ảnh hưởng trực tiếp. Ngoại giao ảo là hình thức ngoại giao liên quan đến sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu. Mặt khác, ngoại giao ảo là việc thông qua các quyết định, phối hợp, liên lạc và thông tin các công việc ngoại giao bằng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin; xây dựng hoạt động của các đại sứ quán, cơ quan lãnh sự, phái đoàn đại diện tại các tổ chức quốc tế, đào tạo cán bộ ngoại giao với chất lượng cao, nhằm nắm được các kỹ năng tuyên truyền, vận động dư luận khác nhau và những công cụ kỹ thuật cao.

Ngoại giao hiện đại đang được cải cách bởi những biến đổi trong bản chất và cấu trúc công tác ngoại giao, hình thành những quan điểm ngoại giao và chiến lược quan hệ quốc tế của kỹ thuật công nghệ thông tin, bao gồm việc xác định những tư tưởng, giá trị, quy phạm, luật lệ và đạo đức dưới ảnh hưởng của ngoại giao ảo, có thể được các chủ thể của quan hệ quốc tế như đại diện nhà nước, các tổ chức phi chính phủ sử dụng.

Đặc thù của mô hình ra quyết định trong ngành Ngoại giao

Quá trình thông qua quyết định đối ngoại được phân thành 04 loại mô hình thường gặp(4). Mô hình lựa chọn hợp lý là mô hình mà trong đó quyết định được thực hiện bởi một nhà lãnh đạo duy nhất với suy nghĩ hợp lý trên cơ sở lợi ích dân tộc, gồm: 1) Quyết định được thông qua đã lưu ý đến tính tổng thể; 2) Thang đo giá trị; 3) Am hiểu chuyên môn; 4) Đã cân nhắc hệ quả theo hệ thống; 5) Được “mở” cho bất kỳ một thông tin mới nào có thể ảnh hưởng đến quyết định. Mô hình quyết định được thông qua dưới ảnh hưởng tổng thể cơ cấu của Nhà nước theo quy trình thông thường. Quyết định được chia thành các mảng riêng thuộc thẩm quyền, đặc thù của sự lựa chọn thông tin, tính phức tạp của quan hệ qua lại, mức độ ảnh hưởng và uy tín, là trở ngại cho thông qua quyết định, dựa trên đánh giá hệ thống hậu quả.  

So sánh và một số gợi mở trong phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam đến 2030

Qua nghiên cứu về các yếu tố tác động đến phát triển nhân lực ngành Ngoại giao từ quan điểm của các học giả nước ngoài và của Việt Nam, có thể thấy những yếu tố tác động chung và riêng. Ở những giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội và khoa học và công nghệ khác nhau, nhưng các tác giả Sabatier và Clemons và McBeth cùng một số nhà nghiên cứu về ngoại giao của Việt Nam đều thống nhất nhấn mạnh việc cần phải vượt lên trên các biểu hiện đa dạng của chính sách công để từ thực tiễn triển khai chính sách nhìn nhận được giá trị cốt lõi của chính sách công đối với xã hội và đánh giá, khắc phục được những mâu thuẫn về giá trị trong quá trình thực hiện. 

Trong khi 03 nhóm yếu tố về bản chất của vấn đề chính sách, năng lực của chủ thể và đối tượng chính sách, môi trường kinh tế, xã hội và tác động của khoa học và công nghệ phản ánh các yếu tố chung của thời đại, thì nhóm yếu tố về bản lĩnh chính trị, trung thành với Tổ quốc, đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, gìn giữ bản sắc dân tộc và giá trị đặc thù của phong cách ngoại giao Việt Nam là những điểm riêng có, xuyên suốt tiến trình phát triển của ngoại giao Việt Nam. Phát triển là quyền của con người và con người là trung tâm của quá trình phát triển, đã được khẳng định trong Tuyên bố năm 1986 của Liên hợp quốc về quyền được phát triển. Ở Việt Nam, tại Điều 1 và Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ việc đảm bảo cho mọi người: “Có điều kiện phát triển toàn diện”. Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; thực thi chính sách phát triển nhân lực hiệu quả không chỉ khẳng định tính đúng đắn của đường lối, chính sách mà còn giúp tăng cường mối gắn kết giữa nhân lực và tổ chức trong thực tiễn công vụ, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Phát huy được bản sắc riêng trong quá trình hội nhập đã, đang và sẽ tiếp tục xây dựng nên đội ngũ nhân lực ngành Ngoại giao có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên nghiệp và thành thạo công nghệ tiên tiến trong tiến trình hội nhập sâu rộng, phát triển bền vững./.

----------------------------------

Ghi chú:

(1) Theo Amitav Acharya, 2021, pp. 123-135.

(2) Fernandez, 2009; Lissitsa & Kol, 2016; Markus Kraus, 2017, p. 2.

(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.603.

(4) Theo Monica Răileanu Szeles, 2021.

Tài liệu tham khảo:

1. Amitav Acharya (2021), ASEAN and Regional Order Revisiting Security Community in Southeast Asia (1st ed., Vol. 1). Routledge. 

2. Bộ Ngoại giao, Quyết định số 2952/QĐ-BNG ngày 21/10/2011 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Ngoại giao giai đoạn 2011-2020.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H.1995.

4. Phạm Bình Minh (chủ biên), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, Nxb CTQG-ST. H.2011.

5. Lisiecka-Zurowska, J. (2019). Diplomacy and Democracy: Twentieth-Century Lessons for the Future of the Diplomatic Craft. 29-52.

6. Vũ Dương Huân, Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb CTQG-ST. H.2018.

 

Nguyễn Đức Thắng - Phó Vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí, Bộ Ngoại giao

Nguyễn Thị Quỳnh Giang - Phó Viện trưởng Viện Đào tạo quốc tế, Trường Đại học Hòa Bình

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Bài học về tái bố trí công chức sau sáp nhập từ một số quốc gia

Ngày đăng 10/05/2025
Bài viết trình bày những bài học rút ra từ kinh nghiệm cải cách hành chính của Đan Mạch, Hungary và Vương quốc Anh, đặc biệt là trong việc tái bố trí công chức và cải cách hệ thống hành chính sau sáp nhập. Từ đó, đưa ra những khuyến nghị cho Việt Nam về cách tiếp cận, tổ chức lại bộ máy hành chính, bảo đảm chất lượng dịch vụ công và nâng cao năng lực công chức.

Kinh nghiệm quốc tế về sáp nhập đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp và giá trị tham khảo đối với Việt Nam

Ngày đăng 28/04/2025
Tóm tắt: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua nội dung đồng ý chủ trương tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp xã (xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố). Chủ trương này hoàn toàn phù hợp xu hướng chung của các nước trên thế giới. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về sáp nhập đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp có giá trị tham khảo lớn đối với Việt Nam trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp; đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong thời gian tới. Từ khóa: Sắp xếp đơn vị hành chính; chính quyền địa phương 02 cấp; kinh nghiệm quốc tế.

Pháp luật về kiện phái sinh tại Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Ngày đăng 31/03/2025
Tóm tắt: Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Nhật Bản, đồng thời đánh giá những ưu điểm và hạn chế của cơ chế này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam. Từ khóa: kiện phái sinh; giải quyết tranh chấp; cổ đông; kinh doanh thương mại; tố tụng dân sự.

Thu hút, tuyển dụng công chức tại các quốc gia OECD và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Ngày đăng 14/03/2025
Một trong các xu hướng cải cách công vụ trên thế giới là thu hút và tuyển dụng những người có tài năng gia nhập nền hành chính. Nỗ lực này bao gồm việc nâng cao sức hấp dẫn của tổ chức công và tuyển chọn công chức dựa trên nguyên tắc thực tài theo các quy trình công khai, minh bạch, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của tổ chức và các ứng viên quan trọng. Các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) luôn chú trọng việc xác định nhóm các ứng viên có năng lực thiết yếu để thu hút và tuyển dụng. Bài viết giới thiệu một số cách thức tạo dựng thương hiệu tuyển dụng và lựa chọn ứng viên cho các công việc trong hệ thống công vụ của các nước OECD, từ đó rút ra một số giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Tích hợp thông tin cá nhân trong thời đại số: Kinh nghiệm từ Estonia và bài học cho Việt Nam

Ngày đăng 14/02/2025
Tóm tắt: Estonia là quốc gia tiên phong trong việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin cá nhân trên Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDLQG). Với nền tảng công nghệ tiên tiến và khung pháp lý chặt chẽ, Estonia đã tích hợp dữ liệu cá nhân vào một hệ thống phi tập trung, đảm bảo tính bảo mật, minh bạch và hiệu quả. Hệ thống này giúp hiện đại hóa quản lý hành chính, đưa Estonia trở thành quốc gia số hóa toàn diện. Bài viết phân tích mô hình quản lý dữ liệu của Estonia, tập trung vào các khía cạnh pháp lý, nội dung và quy trình tích hợp thông tin cá nhân, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc xây dựng hệ thống tương tự X-Road nhằm tối ưu hóa hành chính công và bảo vệ quyền riêng tư của người dân. Từ khóa: Bảo mật thông tin; cơ sở dữ liệu quốc gia; hành chính công; Estonia; tích hợp thông tin cá nhân; X-Road; Việt Nam.

Tiêu điểm

Tập trung giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh khi thực hiện sáp nhập ĐVHC cấp tỉnh, tổ chức lại ĐVHC cấp xã

Bộ Nội vụ cho biết, đã hoàn thành hồ sơ Đề án sắp xếp đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp tỉnh trình Quốc hội xem xét, quyết định. Thời gian tới, Bộ sẽ tập trung ban hành các văn bản hướng dẫn để giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh khi thực hiện sáp nhập ĐVHC cấp tỉnh, tổ chức lại ĐVHC cấp xã bảo đảm tổ chức bộ máy sau sắp xếp đi vào hoạt động thông suốt, không gián đoạn, không có khoảng trống pháp lý; hoàn thiện hướng dẫn về tiêu chuẩn chức danh, ngạch và chế độ, chính sách về tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức ở phường, xã, đặc khu khi thực hiện sắp xếp ĐVHC, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp.