Hà Nội, Ngày 25/04/2024

Quyền lực và kiểm soát quyền lực ở Việt Nam

Ngày đăng: 06/05/2021   17:30
Mặc định Cỡ chữ
Quyền lực - thực chất là công cụ của nhà quản lý để tác động, gây ảnh hưởng và điều khiển đối tượng nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Quyền lực không chỉ bao hàm lợi ích mà cả trách nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có người hiểu rằng quyền lực là mục tiêu cần đạt đến, hoặc quyền lực chỉ có lợi ích mà không có trách nhiệm, do đó đã dẫn đến những hành động sai lầm khi sử dụng công cụ quyền lực trong hoạt động quản lý.

1. Quan niệm về quyền lực

Thuật ngữ quyền lực được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực quản lý. Bertrand Russell (1872-1970) nhà triết học, lôgic học và toán học người Anh cho rằng: “Quyền lực là sự tạo ra những hiệu quả mong muốn”. Robert A.Dahl (1915-2014), nhà chính trị học người Mỹ đưa ra quan niệm: “A có quyền lực đối với B là theo nghĩa A có thể buộc B phải làm điều gì đó, còn B thì không thể bắt buộc A”. Dưới giác độ xã hội học, Max Weber (nhà xã hội học người Đức) đưa ra khái niệm: “Quyền lực trong xã hội là khả năng mà một kẻ hành động trong một mối quan hệ nhất định có thể đạt được mục đích như ý muốn của mình bất chấp sự phản kháng có thể có từ người khác cũng như những nền tảng của khả năng đó”(1).

Nhìn chung các quan điểm nêu trên đều thống nhất cho rằng quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng đến người khác, điều khiển, bắt buộc người khác phải tuân theo yêu cầu dù có muốn hay không. Như vậy, người có quyền lực có khả năng gây ảnh hưởng, sai khiến, điều khiển, bắt buộc người khác phải thực hiện.

Nội hàm của quyền lực luôn có hai yếu tố cân đối, đó là quyền được điều khiển, sai khiến người khác (lợi ích) và sự chịu trách nhiệm về hậu quả của sự điều khiển (trách nhiệm). Sự cân đối giữa quyền lợi và trách nhiệm cũng là nguyên tắc trong hoạt động quản lý. Người có quyền lực có khả năng yêu cầu, bắt buộc người khác phải thực hiện theo những mệnh lệnh của mình thì đương nhiên họ cũng phải chịu trách nhiệm với hành vi của nhân viên cấp dưới do mình điều khiển. Nhà quản lý khác với nhân viên ở chỗ nhân viên chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình, còn nhà quản lý không chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà còn phải chịu trách nhiệm về hành vi của nhân viên cấp dưới do mình quản lý.

Trên thực tế, các nhà quản lý quá chú ý và tận dụng triệt để các lợi ích của quyền lực mà thiếu quan tâm hoặc cố tình xem nhẹ yếu tố trách nhiệm. Đây là lý do giải thích vì sao nhiều người dùng mọi thủ đoạn để có được quyền lực. Khi có lợi ích, các nhà quản lý thường đòi hỏi vì họ cho rằng làm quản lý nên phải được hưởng các lợi ích đó, nhưng khi cần người đứng ra chịu trách nhiệm khi có sai phạm thì lại tìm mọi cách đùn đẩy trách nhiệm. Điều này làm sai lệch nguyên tắc quyền lợi và trách nhiệm của công cụ quyền lực. Việc cân đối giữa quyền lợi và trách nhiệm trong công cụ quyền lực vô cùng quan trọng đối với các nhà quản lý. Bất kỳ sự mất cân bằng về quyền lợi và trách nhiệm đều dẫn đến sự bất ổn trong tổ chức. Vị trí mà trách nhiệm nhiều, quyền lợi ít thì sẽ khó điều khiển người khác, nhân viên thường sẽ không nghe theo mệnh lệnh của nhà quản lý. Khi đó nhà quản lý sẽ rất khó khăn trong việc quản lý, tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu chung và như vậy, nhà quản lý không muốn đảm nhận vị trí đó.

Trách nhiệm ít, quyền lợi nhiều sẽ dẫn đến tình trạng độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân. Cá nhân trong tổ chức sẽ không dám nêu ý kiến, quan điểm của mình vì nhà quản lý có quá nhiều quyền lực và lợi ích. Điều này cũng dẫn đến tình trạng tranh giành quyền lực trong tổ chức, các cá nhân sẽ tìm mọi cách - kể cả dùng thủ đoạn để có được quyền lực. Quyền lực càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Do đó, bất kỳ một sự thiên lệch nào giữa lợi ích và trách nhiệm đều gây ra những khó khăn cho nhà quản lý và là nguy cơ gây bất ổn cho tổ chức. Vì vậy, việc xác lập quyền hạn và trách nhiệm đối với mỗi vị trí luôn là một vấn đề khó trong công tác thiết kế, xây dựng bộ máy tổ chức, đòi hỏi nhà quản lý phải thấm nhuần và xác định rõ quyền và trách nhiệm trong quá trình thực hiện các hoạt động của mình.

2. Quyền lực - công cụ quản lý đặc biệt

Quản lý là một quá trình tác động, điều khiển của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng những công cụ, phương tiện khác nhau nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức, từ đó chủ thể quản lý sẽ sử dụng các công cụ, phương tiện khác nhau để tác động, điều khiển đối tượng quản lý. Dưới giác độ khoa học quản lý, chủ thể quản lý thường sử dụng công cụ vật chất; công cụ phi vật chất và công cụ quyền lực. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, đối tượng khác nhau mà các nhà quản lý sử dụng linh hoạt các công cụ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn công cụ phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng phản ánh trình độ, năng lực, nghệ thuật của nhà quản lý.

Trong các công cụ quản lý, công cụ quyền lực được sử dụng phổ biến và được các nhà quản lý tận dụng triệt để vì tính hiệu quả mà nó mang lại. Khi xem xét công cụ quyền lực, cần hiểu rõ nội hàm để sử dụng cho đúng và hiệu quả. Trong hoạt động quản lý, quyền lực là một loại công cụ đặc biệt vì chỉ được sử dụng trong mối quan hệ giữa con người với con người (giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý), các hoạt động quản lý khác không sử dụng yếu tố quyền lực. Quyền lực là vô hình, nhưng hậu quả và hiệu quả mang lại là hữu hình. Trên thực tế, hoạt động quản lý không thể thực hiện nếu thiếu quyền lực và trong các công cụ quản lý, công cụ quyền lực được chứng minh là có hiệu quả nhất.

Nghiên cứu về công cụ quyền lực cho thấy có nhiều cách phân chia quyền lực khác nhau như: quyền lực cưỡng bức, quyền lực thông tin, quyền lực khen thưởng, quyền lực chuyên môn, quyền lực địa vị… Tuy nhiên, cách tiếp cận mang tính khái quát và toàn diện nhất thường được đề cập đến là cách phân loại quyền lực của Amitai Etzioni, nhà xã hội học người Mỹ. Theo đó, quyền lực trong tổ chức được phân thành hai loại: quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân.

Quyền lực địa vị là quyền lực có được khi nhà quản lý đảm nhận một vị trí nhất định trong tổ chức. Quyền lực địa vị do cấp trên trao cho và nó luôn hữu hạn.

Quyền lực cá nhân xuất phát từ lòng yêu mến, kính trọng của những người xung quanh, của cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, khách hàng… Sự yêu mến, kính trọng có thể do tài năng, đức độ, phong cách, lối sống… của cá nhân đó. Quyền lực cá nhân chủ yếu xuất phát từ cấp dưới, do cấp dưới mang lại cho nhà quản lý.

Quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân có vai trò quan trọng như nhau trong quản lý. Quyền lực địa vị mang tính cưỡng bức, buộc cá nhân phải thực hiện, việc sử dụng quyền lực địa vị có thể mang lại hiệu quả nhanh nhưng dễ dẫn đến sự xung đột, đối tượng quản lý có thể “khẩu phục” nhưng “tâm không phục”. Trong khi đó sử dụng quyền lực cá nhân sẽ mang tính mềm dẻo, tự nguyện và bền vững hơn, nhưng mất thời gian, tính hiệu quả không cao, nhất là đối với những đối tượng cố tình chống phá tổ chức. Mỗi loại quyền lực đều có những ưu điểm, hạn chế riêng nhưng bổ trợ cho nhau và không thể thiếu đối với nhà quản lý. Khi nhà quản lý thiếu hoặc yếu một trong hai loại quyền lực này sẽ rất khó thực hiện hoạt động quản lý một cách bình thường.

Nếu nhà quản lý có quyền lực địa vị nhưng không có quyền lực cá nhân, tức là có địa vị trong tổ chức nhưng lại không có uy tín, không được những người xung quanh kính trọng, nể phục, tin tưởng thì sẽ rất khó điều khiển, sai khiến người khác. Nhân viên có thể thực hiện công việc theo mệnh lệnh nhưng sẽ không nhiệt tình, không có động lực, trước mặt nhà quản lý họ có thể tuân theo, nhưng thể hiện thái độ không tôn trọng. Tình trạng này xảy ra rất phổ biến ở những nhà quản lý thiếu năng lực, chuyên môn.

Mặt khác, nếu nhà quản lý chỉ có quyền lực cá nhân, có uy tín nhưng lại không có vị trí thực quyền trong tổ chức sẽ không có điều kiện, cơ hội để thể hiện năng lực, tài năng của mình. Do đó, cần có cả quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân sẽ đảm bảo tính bền vững trong sự phát triển của hoạt động quản lý. Tuy nhiên phải linh hoạt, không phải lúc nào nhà quản lý sử dụng uy danh của địa vị để uy hiếp, ra mệnh lệnh cho đối tượng quản lý đều mang lại hiệu quả. Một nhà quản lý giỏi, tài năng phải là người hội tụ đủ cả quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân và biết sử dụng quyền lực hợp lý vì mục tiêu chung của tổ chức.

3. Kiểm soát quyền lực

Quyền lực trong các tổ chức công quyền ở nước ta hiện nay là quyền lực nhà nước. Về bản chất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân trên nền tảng chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật một cách dân chủ và bảo đảm thượng tôn pháp luật. Quyền lực nhà nước được giao cho một số cá nhân là cán bộ, công chức để thực hiện các hoạt động quản lý xã hội. Như vậy, khi cán bộ, công chức thực hiện công vụ là đang đại diện, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước để thực hiện công vụ.

Trong các tổ chức công, quyền lực là của Nhà nước, người thực thi công vụ là đại diện cho Nhà nước và sử dụng quyền lực của Nhà nước để thực hiện công việc. Với vị trí, vai trò là công cụ đặc biệt của các nhà quản lý, quyền lực luôn gắn với lợi ích nên dễ bị lợi dụng vào những mục đích tư lợi, cá nhân, nhất là những cá nhân được giao thực hiện nhiệm vụ công. Công cụ quyền lực được phát huy mạnh mẽ trong những tổ chức công do tính mệnh lệnh cao của mô hình tổ chức cơ học. Cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện công vụ là đại diện cho Nhà nước nên hình ảnh, hành động, lời nói không còn mang tính cá nhân mà đại diện cho cơ quan, đơn vị, Nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp dĩ công vi tư”(2). Người cũng đã cảnh báo nguy cơ những cán bộ có chức, có quyền dễ mắc phải “căn bệnh” lạm quyền, lộng quyền, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Do đó, quyền lực cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm soát quyền lực không chỉ để cho người có quyền lực sử dụng đúng mục đích, không lạm dụng quyền vào những việc tư lợi mà còn nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, đơn vị.

Quy định số 205/QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền đã giải thích cụ thể về khái niệm kiểm soát quyền lực: “Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”(3). Quy định đã chỉ rõ những hành vi bị cấm trong công tác cán bộ nhằm kiểm soát quyền lực. Quy định cũng xác định rõ trách nhiệm của các bộ phận, các cấp trong việc kiểm soát quyền lực. Đồng thời, đề ra chủ trương, định hướng rõ ràng việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ cũng như chống chạy chức, chạy quyền.

4. Một số giải pháp trong việc kiểm soát quyền lực đối với nhà quản lý

Nội dung kiểm soát quyền lực là một trong những vấn đề tiếp tục được Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng quan tâm, nêu ra những biện pháp quyết liệt để tăng tính hiệu quả trong thực tiễn. Dưới góc độ quản lý nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây.  

Một là, cần quy định rõ ràng, cụ thể về cơ chế, thủ tục, biện pháp kiểm soát quyền lực.

Qua gần 02 năm thực hiện Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền cho thấy Quy định này chỉ giới hạn về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Trên thực tế vẫn còn có rất nhiều nội dung, các vấn đề liên quan đến quyền lực cần được làm rõ. Do đó, cần có quy định rõ ràng, cụ thể về vấn đề kiểm soát quyền lực dưới dạng nghị quyết chuyên đề. Nghị quyết cần mở rộng ở nhiều nội dung và các vấn đề khác trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Bởi vì, trong tất cả các hoạt động của hệ thống chính trị đều sử dụng công cụ quyền lực và khi đó nguy cơ bị lạm quyền sẽ xuất hiện.

Hai là, phải thể chế hóa việc kiểm soát quyền lực ở các cơ quan hành chính nhà nước.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã quyết liệt trong thực hiện phương châm: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”(4), trong xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của Đảng cũng như hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng còn chậm. Hiện nay, chưa có các quy định cụ thể về việc kiểm soát quyền lực ở khu vực các cơ quan hành chính. Do đó, cần nghiên cứu để sớm ban hành các quy định cụ thể về kiểm soát quyền lực ở khu vực này.

Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc quyền và trách nhiệm trong sử dụng quyền lực.

Trong thực tế, có nhiều nhà quản lý không biết hoặc cố tình không biết phần trách nhiệm của quyền lực. Khi có địa vị thì tận dụng triệt để mang lại quyền lợi, bổng lộc cho mình, nhưng khi xảy ra sự việc cần người “đứng mũi chịu sào”, cần người chịu trách nhiệm thì đùn đẩy, né trách đổ lỗi cho người khác. Nguyên tắc “quyền và trách nhiệm tương xứng với nhau” bắt buộc các nhà quản lý phải hiểu, thấm nhuần và nghiêm túc thực hiện. Tổ chức giao cho nhà quản lý quyền được quyết định, điều hành mọi nguồn lực để thực hiện mục tiêu thì đồng thời cũng yêu cầu phải chịu trách nhiệm về hoạt động của tổ chức.

Đồng thời, để hạn chế việc lạm quyền cần phải có công cụ quyền lực lớn hơn để kiểm soát công cụ quyền lực nhỏ hơn, có nghĩa là “dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực”. Vì vậy, các quy định phải đủ mạnh, đảm bảo sức răn đe, sự nghiêm minh của pháp luật. Khi các quy định, chế tài kiểm soát quyền lực đủ sức răn đe sẽ làm cho người sử dụng quyền lực dù muốn vi phạm cũng không dám làm. Bên cạnh đó, cần có sự kiểm soát chéo giữa những người có quyền lực, giữa những cơ quan, bộ phận với nhau. Việc kiểm soát chéo nhằm giám sát lẫn nhau, kịp thời ngăn chặn việc sử dụng quyền lực không đúng mục đích, lạm quyền của nhà quản lý. Để kiểm soát quyền lực khu vực công rất cần có các quy định để kiểm soát quyền lực ngay từ bên trong, giám sát chéo giữa các cơ quan, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải phát huy vai trò trung tâm, đại diện cho các tầng lớp nhân dân.

Bốn là, tăng cường tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động của tổ chức.

Tăng cường dân chủ, minh bạch trong hoạt động của tổ chức là giải pháp giúp cho các thành viên trong tổ chức thực hiện việc giám sát, sử dụng quyền lực của nhà quản lý. Các bước của quy trình quản lý như lập kế hoạch, ra quyết định, tổ chức thực hiện, phối hợp, kiểm tra, đánh giá đều công khai, có sự tham gia bàn bạc dân chủ sẽ hạn chế việc lạm quyền. Trong đó, cần thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Việc sử dụng công cụ quyền lực hiệu quả, hợp lý sẽ đem lại sự ổn định và phát triển bền vững, phát huy được trí tuệ và sức mạnh tập thể của mỗi cá nhân trong tổ chức. Cán bộ, công chức, viên chức phải nhận thức rõ quyền và trách nhiệm trong hoạt động quản lý, quyền càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Hoạt động quản lý thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng công cụ quyền lực và kiểm soát quyền lực một cách hiệu lực, hiệu quả. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ: “Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, chủ tịch ủy ban nhân dân. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền. Không để lọt những người không xứng đáng, không đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài”(5)./.

---------------------------

Ghi chú:

(1) Md. Saidul Islam, 2008, p2 và Guy Rocher, 1986, p9

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG - ST, H. 2011, tr.127.

(3) Bộ Chính trị, Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền.

(4) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp thứ 14 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 16/8/2018.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb CTQG-ST, H. 2021, tr. 243.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu học tập các Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở), Nxb CTQG-ST, H. 2018.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG - ST, H. 2011.

3. Nguyễn Văn Tạo (2011), Quyền lực, Tạp chí Nhà quản lý, số 88, tr. 20-22.

4. Vũ Ngọc Hoàng, Quyền lực nhất thiết phải được kiểm soát, Tạp chí Cộng sản, số 890 (tháng 12/2016).

5. Nhị Lê, Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, https://moha.gov.vn/danh-muc/hoan-thien-co-che-kiem-soat-quyen-luc-chinh-tri-trong-he-thong-chinh-tri-viet-nam-hien-nay-40950.html, truy cập ngày 09/9/2020.

 

TS Nguyễn Văn Tạo - Khoa Quản trị nguồn nhân lực, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.