Hà Nội, Ngày 29/03/2024

Phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị

Ngày đăng: 19/03/2021   09:59
Mặc định Cỡ chữ
Phát huy mạnh mẽ dân chủ, khuyến khích tìm tòi sáng tạo trong nghiên cứu lý luận là một chủ trương đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng ta.
Ảnh minh họa

Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân

Nghiên cứu lý luận chính trị là lĩnh vực có vai trò rất quan trọng, làm cơ sở lý luận, khoa học cho công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận chính trị, Đảng ta đã coi trọng việc phát huy, thực hành dân chủ, tự do sáng tạo trong nghiên cứu. Trong nhận thức về phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận, Đảng ta quan niệm một cách biện chứng, toàn diện. Dân chủ phải đi liền với kỷ cương, kỷ luật, gắn với trách nhiệm của người nghiên cứu trước Đảng, trước dân tộc. “Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận”(1). Tự do tư tưởng trong nghiên cứu, khám phá sáng tạo trong lý luận đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương trong việc phổ biến kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu “không có vùng cấm”, nhưng việc giảng dạy, tuyên truyền lý luận phải theo quy định của Đảng và Nhà nước. 

Để tăng cường và phát huy dân chủ trong công tác lý luận, trong những năm qua Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết như Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X. Đặc biệt, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Quy định số 285-QĐ/TW ngày 25/4/2015 về “Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã yêu cầu phải “tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”(2).

Việc thực hiện các nghị quyết của Đảng đã góp phần phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, chính trị, “việc phát huy dân chủ, tự do sáng tạo trong nghiên cứu lý luận được coi trọng”(3); đã có những chuyển biến nhất định, đã tạo môi trường thuận lợi hơn cho các tổ chức và cá nhân nhà nước nghiên cứu phát huy năng lực nghiên cứu. Các quan điểm nghiên cứu riêng được tôn trọng, bảo vệ. Nhiều cấp ủy đã coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, tạo được bầu không khí dân chủ, cởi mở trong sinh hoạt lý luận chính trị; thực hiện nghiêm túc các quy định về phát ngôn trong Đảng và ngoài xã hội.

“Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận”

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, ưu điểm nêu trên, “việc phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị còn một số mặt hạn chế, bất cập”(4); như chưa xây dựng được Quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị để làm cơ sở cho phát huy dân chủ. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên đây có nhiều, trong đó có phần trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, có phần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lý luận. Một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ lãnh đạo chưa thực sự coi trọng lý luận và nghiên cứu lý luận, chưa coi lý luận là yêu cầu thiết thân đối với công tác lãnh đạo của Đảng. Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều còn chi phối trong không ít cán bộ lãnh đạo các cấp. Nhiều cán bộ lãnh đạo được đi học cao cấp lý luận chính trị, nhưng đôi khi chỉ với động cơ để “hoàn thiện” đầy đủ bằng cấp, là điều kiện cho quy hoạch hoặc bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý.

Đội ngũ cán bộ lý luận trong những năm qua có tăng lên về số lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa đồng đều; thiếu các chuyên gia đầu ngành, các “cây đa cây đề”, chưa đáp ứng được yêu cầu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; khả năng vận dụng các công trình nghiên cứu vào thực tiễn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy tốt kết quả nghiên cứu; nhiều sản phẩm nghiên cứu của các chương trình, đề tài khoa học còn chưa mạnh dạn đề xuất cái mới, còn e ngại, ít có giải pháp đột phá.

Trong nghiên cứu lý luận còn dừng lại ở những vấn đề chung, những nguyên tắc, nguyên lý, chưa đi sâu vào những vấn đề gay cấn của thực tiễn, còn né tránh sự thật, nhất là những sự thật gai góc, yếu kém, khuyết điểm, lảng tránh những vấn đề “nhạy cảm” sợ đụng chạm. Vì vậy, nhiều vấn đề nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn, không triệt để. Trong nghiên cứu lý luận vẫn còn tình trạng chưa mạnh dạn, thiếu bản lĩnh, chưa nói đã sợ sai, vẫn còn khuôn sáo trong những lý luận đã có, trong sách vở, trong nghị quyết… Nhiều kết quả nghiên cứu lý luận được nghiệm thu đánh giá xuất sắc, công phu, khả thi, song, do thiếu cơ chế sử dụng nên không được chuyển tới các cơ quan có chức năng phù hợp để nghiên cứu ứng dụng. Vẫn còn tình trạng quy chụp về tư tưởng, quan điểm, áp đặt ý kiến cá nhân; việc tổ chức đối thoại lý luận, nhất là với những người có ý kiến khác hoặc trái chiều chưa nhiều; còn thiếu cơ chế bảo vệ những người nghiên cứu có tư duy đổi mới, dám nói, dám đột phá; thiếu chế tài ràng buộc, xử lý vi phạm quyền dân chủ trong nghiên cứu lý luận…

Giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nguyên tắc trong nghiên cứu

Đại hội Đảng lần thứ XIII mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước với những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng. Do đó, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận, có quyết tâm chính trị cao, đẩy mạnh và nâng cao hơn chất lượng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phát huy mạnh mẽ dân chủ trong công tác lý luận, huy động sức sáng tạo của đông đảo đội ngũ cán bộ lý luận và cán bộ thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đặt ra, tháo gỡ các điểm nghẽn của thực tiễn, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững trong một thế giới đầy biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường.

Xuất phát từ tình hình thực tế, để phát huy tốt dân chủ trong nghiên cứu lý luận, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn một số vấn đề dưới dạng các mối quan hệ có ý nghĩa phương pháp luận như sau:

Một là, quan hệ giữa kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Cách tốt nhất để bảo vệ một học thuyết khoa học là phải phát triển sáng tạo nó cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Bảo vệ bằng cách phát triển, thông qua sự phát triển là cách tốt nhất để bảo vệ một học thuyết khoa học và cách mạng như chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày nay, sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước cũng đặt ra nhiều thách thức cho việc kiên định và sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi những người nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta phải nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm thật vững tinh túy của các luận điểm kinh điển Mác - Lênin, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực tư duy lý luận sáng tạo, nắm vững phương pháp tư duy biện chứng, thường xuyên bám sát sự biến đổi cụ thể của tình hình thực tiễn trong nước và thế giới.

Hai là, quan hệ giữa lý luận và chính trị.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức và giải quyết vấn đề này ngày càng cởi mở, dân chủ hơn, khắc phục tình trạng đồng nhất giữa lý luận và chính trị dẫn đến quy chụp không đúng quan điểm chính trị của nhà khoa học. Đảng ta chủ trương xây dựng môi trường dân chủ trong nghiên cứu lý luận, tạo nhiều cơ hội cho nhà khoa học tiếp cận thông tin, khuyến khích các nhà khoa học bày tỏ suy nghĩ độc lập, chính kiến khoa học, ý kiến khác nhau trong tranh luận khoa học được tôn trọng và bảo lưu. Nhiều luận điểm khoa học qua nghiên cứu đã được ghi nhận, trở thành cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tình trạng lý luận đơn thuần chạy theo minh họa cho đường lối chính trị đã từng bước được khắc phục.

Cần nhận thức rõ, việc lý luận đi sâu phân tích, thuyết minh làm rõ cơ sở khoa học của đường lối chính trị là cần thiết. Nếu biến lý luận thành người chỉ chạy theo minh họa cho chính trị là hạ thấp lý luận, đánh mất chức năng khám phá, sáng tạo của lý luận. Lý luận có nhiệm vụ cao quý là soi đường cho thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho đường lối chính trị, các quyết sách chính trị của Đảng. Do đó, lý luận gắn bó mật thiết với chính trị.

Lý luận có nhiệm vụ cao quý là soi đường cho thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho đường lối chính trị, các quyết sách chính trị của Đảng.

Ba là, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

Đây là mối quan hệ cơ bản, lớn của nghiên cứu lý luận chính trị. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận, là tiêu chuẩn của chân lý. Do đó nghiên cứu lý luận chính trị, việc thực hành dân chủ trong nghiên cứu phải lấy thực tiễn là điểm xuất phát và điểm đến của lý luận, phải phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn, phải chú ý đến lợi ích thực tiễn, hiệu quả thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của nghiên cứu lý luận, phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong nghiên cứu.

Bốn là, quan hệ giữa thực hành dân chủ với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nguyên tắc trong nghiên cứu

Việc phát huy, thực hành dân chủ sao cho không dẫn đến phủ nhận, hạ thấp những nguyên lý cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm “bốc hơi” các nguyên lý lý luận. Phải giữ vững kỷ luật phát ngôn trong nghiên cứu, trình bày lý luận, khi công bố các kết quả nghiên cứu phải theo quy định của Đảng, Nhà nước, đề cao trách nhiệm chính trị của cá nhân trước Đảng, Nhà nước, trước tổ chức...

Một số định hướng, giải pháp khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại

Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận.

Như Nghị quyết số 37-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XI đã khẳng định: “Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải quan tâm đặc biệt đến công tác lý luận, tổng kết thực tiễn”. Đảng phải coi công tác lý luận là công việc thiết thân của mình không kém gì nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không quan tâm đến công tác lý luận, đặc biệt lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, lý luận về đổi mới, không nghiên cứu, bổ sung phát triển lý luận của Đảng thì không thể khắc phục tình trạng chậm trễ của lý luận như trong nhiều nghị quyết Đảng ta đã nhận định. Nếu công tác lý luận được quan tâm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng thực sự sẽ tạo tiềm lực lâu dài, sức mạnh nội sinh của Đảng; phải coi xây dựng Đảng về lý luận là một nhiệm vụ quan trọng của xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.

Thứ hai, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia đầu ngành; nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. 

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII khẳng định cần “đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận; có chế độ chính sách thỏa đáng nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành”; cần phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo những người có năng khiếu lý luận, có năng lực tư duy sáng tạo, say mê nghiên cứu lý luận. Cần có chiến lược đào tạo cán bộ lý luận, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận một cách toàn diện cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung. Đồng thời, cần có cơ chế bảo vệ những cán bộ khoa học dám đột phá sáng tạo. Các chế độ, chính sách đối với nhà khoa học cần hướng họ đi sâu vào chuyên môn để trở thành những chuyên gia lý luận giỏi. Cần khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị, hoặc học để đối phó, để cho có bằng cấp. Cần đổi mới căn bản công tác đào tạo cán bộ lý luận chính trị từ khâu quy hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp theo tinh thần “khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại” nhằm hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ đầu ngành, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, giàu khả năng tư duy sáng tạo nhằm phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài.

Thứ ba, gắn kết tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, định hướng chính sách.

Việc phát triển lý luận, thực hành dân chủ trong nghiên cứu lý luận suy cho cùngcũng phải dựa trên tổng kết thực tiễn để đánh giá. Chỉ có bằng tổng kết thực tiễn và qua tổng kết thực tiễn mới có thể phát triển lý luận, mới có sáng tạo về lý luận, đột phá lý luận. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng những bế tắc của lý luận phải tìm lời giải đáp từ trong thực tiễn sinh động.

Cần tìm ra cơ chế kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, coi trọng việc tư vấn chính sách trong cơ chế kết hợp này. Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức nghiên cứu lý luận với tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, tổ chức hoạch định chính sách và thực thi chính sách. Xây dựng cơ chế để các nhà lý luận được tham gia thường xuyên vào quá trình tổ chức thực tiễn, tổ chức thực hiện nghị quyết - một khâu yếu hiện nay như nhiều nghị quyết vẫn đề cập đến.

Thứ tư, phát huy mạnh mẽ dân chủ, khuyến khích tìm tòi sáng tạo trong nghiên cứu lý luận.

Đây là một chủ trương đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng ta. Mới đây, trong Báo cáo Chính trị của Đại hội XIII khẳng định: “Thực hiện nghiêm Quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân”. Quy định số 285-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước” chỉ rõ: “Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng kết quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với pháp luật hiện hành”. Mặc dù quy định mới giới hạn nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, song đây là một bước tiến trong nhận thức của Đảng, tạo cơ sở chính trị quan trọng để phát huy dân chủ, tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ trong nghiên cứu lý luận chính trị để đóng góp vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ năm, tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận.

Cần xây dựng quy hoạch tổng thể các cơ quan lý luận, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế với chế độ, chính sách đi kèm, mối quan hệ phối hợp.

Cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về lý luận theo hướng đa dạng hóa các hình thức hợp tác và các tổ chức hợp tác, nâng cao hiệu quả hợp tác để tiếp cận, mở rộng tầm nhìn, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của văn minh nhân loại, tăng cường nghiên cứu các trào lưu tư tưởng, các lý thuyết mới trên quan điểm khách quan và biện chứng, qua đó làm phong phú hơn tri thức của giới lý luận nước nhà./.

-----------------------------------

Ghi chú: 

(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, H. 2014.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.256.

 

GS.TS Lê Hữu Nghĩa

Theo: tuyengiao.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Phát huy vai trò của đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong thực hiện công tác thi đua, khen thưởng

Ngày đăng 28/03/2024
Năm 2024 là năm bản lề có ý nghĩa rất quan trọng đối với các cơ quan, đơn vị và cả hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng; năm đầu tiên triển khai thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Để thực hiện thành công, hiệu quả những kế hoạch, mục tiêu đã đề ra, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở mỗi cơ quan, đơn vị cần phát huy vai trò của người đứng đầu trong thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, nhằm khuyến khích, động viên mỗi cá nhân và tập thể phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, trong thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới

Ngày đăng 25/03/2024
Ngày 12/3, Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Hướng dẫn số 145-HD/BTGTW về thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. 

Tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh - nhân tố quyết định sự ổn định và phát triển vùng bền vững

Ngày đăng 11/03/2024
Xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh để xứng đáng với niềm tin của Nhân dân được xác định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, vừa thường xuyên, vừa cấp bách, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, nhất là ở những địa bàn (vùng) kinh tế trọng điểm chiến lược. 

Rà soát, sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng gắn với mục tiêu xây dựng công nghiệp hiện đại

Ngày đăng 29/02/2024
Bộ Chính trị yêu cầu khẩn trương rà soát, sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng gắn với mục tiêu xây dựng công nghiệp hiện đại đến năm 2030, nhất là chính sách, pháp luật về đầu tư công, quy hoạch, đối tác công - tư, ngân sách nhà nước, phát triển hạ tầng số, kinh tế số, xã hội số... Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo sự liên thông giữa các thủ tục đầu tư với các thủ tục về đất đai, xây dựng, đấu thầu, môi trường; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước tham gia; phân cấp đầu tư và giao trách nhiệm cho người đứng đầu trong quyết định đầu tư.

Từ 26/02/2024: Thi trực tuyến tìm hiểu nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII

Ngày đăng 20/02/2024
Nhân kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức cuộc thi trực tuyến tìm hiểu Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII.  

Tiêu điểm

Sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam

Trong thời đại cách mạng công nghiệp hiện nay, với chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, nền kinh tế Việt Nam cơ bản đã vượt qua giai đoạn khó khăn, đạt được tốc độ tăng trưởng cao, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động cả chiều thuận lợi và không thuận lợi đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, vì vậy cần tiếp tục có những nghiên cứu, đánh giá sự tác động đó để có giải pháp phù hợp với chính sách an sinh xã hội một cách hiệu quả. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với công tác an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.