Hà Nội, Ngày 24/04/2024

Phát triển nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Ngày đăng: 02/11/2020   14:46
Mặc định Cỡ chữ
Những năm qua, công tác phát triển nhân lực quản lý nhà nước của ngành Văn hóa, thể thao và du lịch đã được quan tâm, đạt nhiều kết quả, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch. Tuy nhiên, nhân lực quản lý của ngành vẫn còn có những bất cập, hạn chế như thiếu tính chuyên nghiệp, không đủ nhân lực có kỹ năng nghề và trình độ chuyên môn cao, trình độ quản lý còn yếu, còn có những bất hợp lý trong quản lý và sử dụng nhân lực, đào tạo phát triển nhân lực chưa gắn với thực tiễn…, nên đội ngũ nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hóa, thể thao và du lịch theo định hướng của Đảng và Nhà nước.

1. Vai trò của nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa

Trong những năm gần đây, công tác quản lý nhà nước về văn hóa được Đảng, Nhà nước và ngành Văn hóa, thể thao và du lịch đặc biệt quan tâm. Quán triệt tinh thần: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(1), công tác quản lý nhà nước về văn hóa đã và đang đi vào chiều sâu, thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Để có được những thành tựu đó không thể không kể đến vai trò của đội ngũ nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa - những người trực tiếp tham mưu, theo dõi, tổ chức, quản lý các hoạt động văn hóa.

Trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ mở cửa và hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực nhưng vẫn luôn kiên định con đường “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(2), công tác quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng được đẩy mạnh, thì vai trò của nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa càng được đề cao. 

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã được Đảng, Nhà nước quan tâm trong các chính sách kinh tế - xã hội từ Trung ương đến các địa phương… Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều giá trị di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển”(3). Qua quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cho thấy, nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa đóng vai trò quyết định trong những việc sau đây:

Thứ nhất, tham mưu, xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực văn hóa trong đời sống xã hội đối với các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa - Thông tin, Sở Du lịch và các đơn vị, tổ chức có liên quan; chỉ đạo, phối hợp với Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ, công tác thuộc lĩnh vực văn hóa; có trách nhiệm chuẩn bị các đề án trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; phối hợp ban hành thông tư liên tịch chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các vấn đề thuộc chức năng quản lý nhà nước về văn hóa. Ngành văn hóa đã tập trung xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ, có giá trị pháp lý trong lĩnh vực văn hóa, tạo điều kiện để hoạt động văn hóa ngày càng thuận lợi.

Thứ hai, hướng dẫn, kiểm tra các cơ quan, đơn vị thực hiện các nhiệm vụ, công tác thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; tham mưu đình chỉ thi hành các văn bản có nội dung trái pháp luật do các cơ quan, đơn vị hoặc địa phương ban hành thuộc ngành, lĩnh vực được giao quản lý. Các hoạt động này nhằm giúp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát huy tối đa chức năng, nhiệm vụ trong công tác ban hành văn bản, kiểm tra, giám sát, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về văn hóa và quản lý ngành, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao.

Thực tiễn đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa trên nhiều bình diện, cả về lý luận và thực tiễn. Sự phát triển ngày càng đa dạng các mô hình, loại hình, sản phẩm, phương thức hoạt động văn hóa; sự đòi hỏi ngày càng cao trong sáng tạo và thụ hưởng văn hóa của người dân là vấn đề cần được các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa từ Trung ương đến địa phương giải quyết. Điều đó đòi hỏi nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa phải được nâng lên một tầm cao mới về phẩm chất, tư duy và năng lực phù hợp với yêu cầu của công việc và thực tiễn đặt ra.

2. Thực trạng nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay

Nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa là những người công tác tại các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương. Đội ngũ nhân lực này tuy không nhiều về số lượng, nhưng phải đảm trách một khối lượng công việc rất lớn với yêu cầu cao. Để tạo điều kiện cho đội ngũ này làm việc hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ, những năm gần đây, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã và đang thực hiện tốt công tác “chuẩn hóa” cán bộ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ trong hàng ngũ lãnh đạo, quản lý, tham mưu cũng như những người làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa nói chung, cụ thể là:

- Về trình độ lý luận: 100% nhân lực được trang bị trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên. Riêng nhân lực quản lý, lãnh đạo các đơn vị trong ngành hầu hết có trình độ cao cấp lý luận chính trị.

- Về chuyên ngành đào tạo: nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa hầu hết được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành. Việc tuyển dụng được thực hiện theo yêu cầu công việc và chuyên môn đào tạo phù hợp. 

- Về công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ: nhìn chung, nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa được bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên. Hàng năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều dành nguồn kinh phí đáng kể để tổ chức các lớp bồi dưỡng, nâng cao, hoàn thiện, chuẩn hóa theo quy định về chuyên môn, nghiệp vụ, về lý luận chính trị, ngoại ngữ, từng bước xây dựng đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về văn hoá đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. 

Tuy nhiên, việc tập huấn, bồi dưỡng chưa thực sự hiệu quả do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ các nội dung chương trình chưa thật sự thiết thực, còn nặng về lý thuyết chung chung, chưa có nhiều chương trình chuyên sâu dành riêng cho nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa…

- Về công tác cán bộ: đã lựa chọn và tuyển dụng được đội ngũ nhân lực về cơ bản có trình độ phù hợp, phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, dần trẻ hóa đội ngũ. Đặc biệt, ngành Văn hoá, thể thao và du lịch đã chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hoá, nhất là cán bộ chủ chốt tham gia lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn học nghệ thuật.

- Về khả năng giải quyết công việc và tinh thần trách nhiệm: đây là yếu tố góp phần tạo nên hiệu quả, chất lượng, tính bền vững của chất lượng công tác. Về cơ bản, đội ngũ nhân lực ngành văn hóa đảm nhiệm công việc này đều có trình độ chuyên môn phù hợp, đạt chuẩn trở lên, có khả năng, năng lực thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa trước những đòi hỏi ngày càng cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, công chức chưa thực sự chuyên tâm vào công việc, khả năng tham mưu cũng như giải quyết công việc còn hạn chế, nhiều lúng túng, thiếu linh hoạt, chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn về văn hoá, chưa giải quyết được các vấn đề văn hoá thực sự có chiều sâu… nên đã ảnh hưởng đến chất lượng công việc.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng có thể khẳng định nguyên nhân cơ bản nằm ở tính đa ngành, đa lĩnh vực, tính đặc thù cao của văn hóa, trong khi đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa chưa đủ năng lực, sự nhạy cảm, linh hoạt cần có trong giải quyết công việc. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi văn hóa là một trong những lĩnh vực chịu sự chi phối rất lớn bởi mặt trái của hội nhập quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực không dễ giải quyết được ngay. Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp liên quan đến quản lý nhà nước về văn hóa chưa đồng bộ, nhiều văn bản pháp luật chưa theo kịp với thực tiễn phát triển văn hóa và con người, còn nhiều khoảng trống hoặc chồng chéo; nguồn ngân sách dành cho hoạt động quản lý chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn… Đây là những thách thức không nhỏ trong thực thi nhiệm vụ của nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa.

3. Giải pháp phát triển nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Trên cơ sở quán triệt quan điểm chung của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ; các quan điểm về phát triển nguồn nhân lực nói chung của ngành, nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng nhằm góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, thực hiện có kết quả việc rà soát, phân loại, đánh giá nhân lực thuộc khối quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập, khối doanh nghiệp; rà soát và giải quyết những bất cập, hạn chế về cơ cấu tổ chức và số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu của Bộ Nội vụ và Chính phủ.

Hai là, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn cũng như dài hạn hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Văn hóa, thể thao và du lịch nói chung; nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng đáp ứng các yêu cầu về năng lực chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Xây dựng đội ngũ nhân lực quản lý nhà nước về văn hoá phải xuất phát từ tình hình thực tiễn, thông qua thực tiễn để đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ của ngành, của đất nước.

Ba là, có cơ chế đặc thù hỗ trợ phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật. Tập hợp, phát huy trí tuệ của nhân lực ngành văn hóa và các lĩnh vực liên quan xây dựng và hoàn thiện bộ tài liệu đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu của ngành cho các nhóm nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa từ cấp bộ, sở, huyện đến cấp cơ sở… đáp ứng yêu cầu đặt ra từ các vấn đề tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hóa về kinh tế và văn hóa.

Bốn là, chú trọng công tác cán bộ, trong đó đặt trọng tâm vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng. Thực hiện tốt nhiệm vụ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa có trình độ chuyên môn theo kịp và thích ứng với sự phát triển của đất nước. Chăm lo xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực và khả năng tham mưu, giúp việc, quản lý tốt các hoạt động văn hóa trên phạm vi cả nước.

Năm là, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với đội ngũ nhân lực làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hoá phù hợp với thực tiễn, thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, có chế độ đãi ngộ hợp lý. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với đội ngũ nhân lực quản lý nhà nước về văn hoá hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù và ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với khả năng, năng lực của nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa theo vị trí việc làm; tiến hành tổ chức thi tuyển đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý và các vị trí công việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế trong trao đổi kinh nghiệm, đào tạo nguồn nhân lực của ngành Văn hoá, thể thao và du lịch nói chung, nhân lực quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng nhằm nâng cao năng lực tham mưu, tư vấn; tổ chức tìm hiểu, nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động và quản lý nhà nước về văn hóa đối với các nước trong khu vực và quốc tế, đặc biệt là với các quốc gia có sự tương đồng về mô hình phát triển; bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế về kinh tế và văn hóa, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ.

Bảy là, xây dựng các chính sách văn hóa nhằm tăng cường hoạt động kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế để tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động văn hóa phát triển. Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, tạo môi trường văn hóa lành mạnh đáp ứng các nhu cầu sáng tạo và thụ hưởng các giá trị văn hóa của người dân trong tình hình hiện nay./.

----------------------------------------------

Ghi chú:

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị Trung ương lần thứ chín, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.40.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.123-124.


TS Nguyễn Ngọc Thiện - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.