Hà Nội, Ngày 24/04/2024

Một số vấn đề về thể chế văn hóa công vụ ở Việt Nam

Ngày đăng: 12/10/2020   14:36
Mặc định Cỡ chữ
Văn hóa công vụ là loại hình văn hóa gắn với tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nên được điều chỉnh bằng những công cụ pháp lý nhất định. Hoạt động xây dựng và thực hiện các quy định về văn hóa công vụ bị chi phối bởi nhiều yếu tố như văn hóa dân tộc, bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Thực tế cho thấy, các quy định về văn hóa công vụ hiện nay còn tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật, thiếu chế tài hoặc chế tài yếu dẫn đến việc vận dụng xử lý các vi phạm thiếu thống nhất. Nhận diện đầy đủ những hạn chế, thiếu sót, từ đó có các giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện thể chế văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện nay là cơ sở để nâng tầm văn hóa công vụ trong giai đoạn tới.

Tại Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ, trong đó nêu rõ mục tiêu: nâng cao văn hóa công vụ, góp phần hình thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ; đáp ứng nhu cầu phục vụ nhân dân, xã hội. Như vậy, việc xây dựng và thực hiện văn hóa công vụ ngày càng trở thành đòi hỏi cấp thiết, được tiếp cận như một giải pháp mang tính chủ động.

1. Khái quát về văn hóa công vụ và thể chế văn hóa công vụ

Công vụ “là hoạt động mang tính quyền lực - pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoặc những người khác khi được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội”(1). Trong bất kỳ hoạt động nào, văn hóa cũng là phần tạo nên giá trị cốt lõi, vì thế, văn hóa công vụ có vai trò đặc biệt quan trọng. Vì gắn với tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nên văn hóa công vụ “được xem là một hệ thống biểu tượng, chuẩn mực, giá trị, niềm tin hình thành trong nhận thức, tạo nên tầm nhìn, tác động đến hành vi và lề lối làm việc, cách sống của người thực thi công vụ, của môi trường tổ chức, có khả năng lưu truyền và ảnh hưởng tới chất lượng công vụ”(2).

Về bản chất, văn hóa công vụ thể hiện những chuẩn mực, cách thức ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức với nhau và với nhân dân trong các quan hệ liên quan tới công vụ. Và như thế, đạo đức công vụ chính là phần quan trọng, không thể thiếu trong văn hóa công vụ. Do đặc trưng của hoạt động công vụ nên khi thực thi nhiệm vụ thì văn hóa ứng xử của các chủ thể mới được bộc lộ rõ nét và đầy đủ nhất. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, văn hóa, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức không chỉ được bộc lộ trong khi thực hiện nhiệm vụ mà còn được đánh giá qua ứng xử, lối sống cả ở nơi làm việc và sinh sống cũng như trong các mối quan hệ xã hội khác. 

Văn hóa công vụ chịu sự ảnh hưởng, chi phối của văn hóa cộng đồng, văn hóa quốc gia; các giá trị văn hóa truyền thống và đương đại chính là nền tảng, cơ sở của việc hình thành, lựa chọn các giá trị về tổ chức và hoạt động của các chủ thể. Văn hóa công vụ bao gồm hệ thống các giá trị, chuẩn mực được thể hiện ra bên ngoài, nhưng mặt khác còn chứa đựng trong tiềm thức, ý thức của con người nên cấu trúc của văn hóa công vụ theo chiều ngang bao gồm cả lớp bên trong và hình thức thể hiện bên ngoài. 

Lớp bên trong của văn hóa công vụ bao gồm quy tắc ứng xử chung mà mọi thành viên trong tổ chức đều tuân thủ, văn hóa truyền thống cùng với các giá trị cốt lõi của nền công vụ như: duy trì niềm tin của công chúng vào nhà nước, trách nhiệm thực thi công vụ; trung thành, trung thực, khách quan, minh bạch, đúng pháp luật; mang tính chuẩn mực nghề nghiệp: phục vụ bằng năng lực, kết quả, khách quan và không thiên vị. Lớp bên ngoài là các yếu tố hữu hình được thể hiện ra, bao gồm: biểu tượng, khẩu hiệu, trang thiết bị, cảnh quan, kiến trúc đặc trưng, sản phẩm, tài liệu; hệ thống nghi lễ, thủ tục, quy trình, cách thức tổ chức hoạt động; thái độ, hành vi của những người thực thi công vụ như trang phục, giao tiếp, ứng xử,… 

Mỗi lớp của văn hóa công vụ bao hàm 3 trụ cột chính: công cụ, thiết chế để thực hiện và cách thức thực hiện. Công cụ điều chỉnh văn hóa công vụ là thể chế văn hóa công vụ. Thể chế văn hóa công vụ là các quy định, quy chế, quy tắc về hệ thống các chuẩn mực, giá trị, niềm tin hình thành trong quá trình xây dựng và phát triển công vụ của cá nhân và tổ chức, có khả năng lưu truyền và ảnh hưởng tới chất lượng công vụ.

Thể chế văn hóa công vụ có 2 cấp độ: tự giác và bắt buộc thực hiện. Ở cấp độ tự giác, là các quy tắc hướng dẫn ứng xử chung để các cá nhân và tổ chức tự điều chỉnh mà không cần chế tài. Nhưng từ góc độ pháp luật, đó là các quy định có tính bắt buộc, phải thực hiện, với những chế tài cụ thể. Thiết chế thực hiện là bộ máy để triển khai và cuối cùng là biện pháp, cách thức để triển khai thực hiện những quy định đó có hiệu quả.

Các quy định pháp luật về văn hóa công vụ cũng được chia làm nhiều cấp độ: các nguyên tắc chung, chuẩn mực chung và chuẩn mực cụ thể. Nguyên tắc chung là những chuẩn mực mang tính chất chỉ đạo, định hướng. Các chuẩn mực chung để điều chỉnh hoạt động của cơ quan, tổ chức và hành vi của mọi cán bộ, công chức, viên chức như chuẩn mực trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, với nhân dân,… Chuẩn mực cụ thể hướng tới nhóm cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức gắn với những đặc điểm về nghề nghiệp của họ. 

2. Thể chế văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện nay

Văn hóa công vụ gắn với việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nên được phản ánh bằng những hình thức pháp lý nhất định. Trên cơ sở nhận thức cũng như những hành động đáp ứng đúng, đủ, kịp thời những yêu cầu của pháp luật là nền tảng cho việc thực thi văn hóa công vụ. Hệ thống thể chế, pháp luật phù hợp với thực tiễn, với sự vận động khách quan của đời sống xã hội sẽ tạo không gian pháp lý tương thích để cán bộ, công chức, viên chức chủ động, sáng tạo, yên tâm cống hiến, phục vụ và nâng cao chất lượng công vụ. 

Các chuẩn mực văn hóa trong hoạt động công vụ đã được hình thành và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Nhìn chung, các quy định về văn hóa công vụ thể hiện trong nhiều văn bản luật(3); các văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành(4), cùng nhiều bộ quy tắc ứng xử của các cơ quan, đơn vị, địa phương. 

Các quy phạm về văn hóa công vụ được xây dựng theo hệ thống: 1) Các nguyên tắc chung; 2) các chuẩn mực chung áp dụng trong toàn bộ nền công vụ; 3) Các chuẩn mực áp dụng cho từng nhóm đối tượng cụ thể hoặc theo cấp bậc, chức vụ; 4) Các chuẩn mực áp dụng cho từng lĩnh vực cụ thể; trên cơ sở đó, mỗi bộ, ngành, địa phương và cơ quan, đơn vị xây dựng những giá trị và chuẩn mực phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, chức năng, nhiệm vụ của mình.

Trên thực tế, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2019 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2020) đã có nhiều quy định cho 2 nhóm đầu, điều chỉnh các hoạt động công vụ từ chỉ đạo, điều hành trong lãnh đạo, quản lý đến việc thực thi các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong thực thi công vụ ở mọi lĩnh vực. Những quy định này đã đặt nền tảng cho việc xây dựng các định chế văn hóa công vụ như một yêu cầu trọng tâm của hoạt động quản lý nhà nước. 

Đối với các chuẩn mực văn hóa công vụ áp dụng cho từng nhóm chủ thể, hiện nay mới có một số quy định cho nhóm đặc thù. Cụ thể, đó là các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa trách nhiệm người đứng đầu với trách nhiệm tập thể trong lãnh đạo quản lý cũng như kiến tạo, thực thi văn hóa công vụ(5). Quy định đối với nhóm cán bộ, công chức, viên chức có chức vụ, quyền hạn (Điều 20 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018), song chủ yếu hướng tới điều chỉnh hành vi trong phòng, chống tham nhũng. Các quy định đối với nhóm cơ quan, tổ chức đặc thù như công an, quân đội, giáo viên(6)... Đối với các lĩnh vực cụ thể, có khá nhiều quy định có liên quan đã được ban hành(7). 

Tuy nhiên, những quy định cụ thể về văn hóa công vụ vẫn chưa rõ ràng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, thiếu tính hệ thống, thiếu chế tài hoặc chế tài yếu; việc vận dụng các quy định này trong xử lý các vi phạm cũng chưa kịp thời và thống nhất. Do đó, để nâng cao tính pháp lý, tạo chuẩn mực chung thì một số quy định cần được hệ thống hóa, pháp điển hóa về chuẩn mực, tiêu chí, cách thức thực hiện đối với mỗi nhóm chủ thể, nhóm hoạt động công vụ nhất định.

Theo Quyết định số 319/QĐ-BNV ngày 18/4/2019 của Bộ Nội vụ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1847/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Văn hóa công vụ thì nhóm nguyên tắc về văn hóa công vụ có thể được hoàn thiện bằng một chế định riêng trong Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức để thống nhất cách hiểu, hướng thực hiện. Các chuẩn mực chung về văn hóa công vụ sẽ được hệ thống hóa, thiết kế theo 4 nhóm, đó là: tinh thần, thái độ làm việc; giao tiếp, ứng xử; đạo đức, lối sống; trang phục của cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, chủ thể của văn hóa công vụ trước hết là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước nên cách xác định theo các chuẩn mực này mới hướng đến các cá nhân cán bộ, công chức, viên chức. Mặt khác, cách phân chia này cũng cần điều chỉnh để có thể bao quát được các nội dung cơ bản của văn hóa công vụ.

3. Một số đề xuất về hoàn thiện thể chế văn hóa công vụ

3.1. Về xây dựng thể chế

Hệ thống quy phạm pháp luật về văn hóa công vụ phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với quy phạm đạo đức, sự tương thích với văn hóa truyền thống. Hình thức và nội dung thể chế pháp lý về lĩnh vực này vừa phải phù hợp pháp luật trong nước, đồng thời phải thích ứng với sự phát triển đa chiều của xã hội và có tính hội nhập quốc tế. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế văn hóa công vụ cần đặt trong nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Chính phủ thông minh, xã hội thông tin với những vấn đề toàn cầu không ngừng thay đổi. Để xây dựng, hoàn thiện pháp luật về văn hóa công vụ, cùng với việc rà soát khung pháp lý hiện hành trong lĩnh vực này, cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế để có góc nhìn toàn diện và hội nhập hơn cho hoạt động này là hết sức cần thiết(8).

Hoàn thiện quy định về văn hóa công vụ trong Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thể chể hóa các giá trị, chuẩn mực cơ bản của văn hóa công vụ, tạo nền tảng để các giá trị của văn hóa công vụ duy trì và phát triển. Rà soát, hệ thống hóa các quy định về văn hóa công vụ trong các văn bản luật có liên quan để đảm bảo tính thống nhất, khắc phục sự trùng lắp hoặc mâu thuẫn. Cùng với quy định những việc phải làm, pháp luật về văn hóa công vụ cần quy định những hành vi bị coi là vi phạm và chế tài xử lý trong các nhóm quy phạm nhất định(9). Mỗi mục cần quy định rõ: khái niệm, các dấu hiệu của chuẩn mực; hành vi vi phạm về văn hóa công vụ; nguyên tắc, hình thức xử lý vi phạm; trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử lý vi phạm.

Thể chế văn hóa công vụ cần hoàn thiện các quy định về giám sát việc thực hiện pháp luật, bao gồm giám sát bên trong và từ bên ngoài, đặc biệt là giám sát xã hội đối với việc thực hiện các giá trị, chuẩn mực văn hóa công vụ của cán bộ, công chức, viên chức và của cơ quan, tổ chức nhà nước. Các quy định về chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm sự công bằng và ứng xử phù hợp trong hoạt động công vụ.

3.2. Triển khai thực hiện nghiêm pháp luật hiện hành về văn hóa công vụ

Tập trung nguồn lực cho việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về văn hóa công vụ là nội dung quan trọng để quyết định kết quả của những nỗ lực và quyết tâm nâng tầm văn hóa công vụ. Bởi vì, khi các quy định không được triển khai thực hiện nghiêm túc sẽ tạo thái độ coi thường pháp luật của các chủ thể có liên quan và việc thực hiện sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Cần chú trọng công tác lựa chọn công chức, bảo đảm đầu vào là những người có năng lực, có đạo đức. Khi tuyển dụng công chức cần chú trọng các giá trị và chuẩn mực văn hóa của công chức. Hình thành ý thức tự giác vươn tới những chuẩn mực của nền công vụ cùng với việc chịu trách nhiệm bởi những vi phạm, khiếm khuyết của mình. Đối với viên chức, có thể đưa nội dung cam kết giữ gìn văn hóa trở thành trách nhiệm của viên chức trong hợp đồng làm việc. Đồng thời, quy định vi phạm về văn hóa công vụ là một trong những căn cứ để đánh giá kết quả, xem xét chấm dứt hợp đồng làm việc. Thường xuyên bồi dưỡng, hình thành tri thức, tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức của công chức. Giáo dục đạo đức công vụ cần đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức, khuyến khích và tôn vinh sự hướng thiện trong khi thực hiện nhiệm vụ.

Từng bước nâng cao chất lượng môi trường công vụ, tạo ra nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và thực hiện văn hóa trong hoạt động công vụ. Môi trường công vụ, theo nghĩa rộng bao gồm các yếu tố như thể chế kiểm soát quyền lực, phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn từng cơ quan trong bộ máy nhà nước, cơ chế giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước,… Đây là những điều kiện căn bản để văn hóa công vụ được xây dựng và thực hiện./. 

--------------------------------------

Ghi chú:

(1) Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật Hành chính, Nxb CTQG-ST, H.2016.

(2) Huỳnh Văn Thới (chủ biên), Văn hóa công vụ ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận Chính trị, H.2016, tr.39-40.

(3) Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã đề cập đến đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ. Ngoài ra Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi các năm 2007, 2012, 2015, 2018); Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005 (sửa đổi năm 2013); Luật Tiếp công dân năm 2013; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật trên cũng có nhiều quy định về ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. 

(4) Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước. Các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có liên quan như Chỉ thị số 32/2006/CT-TTg ngày 07/9/2006 về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 10/5/2007 về việc tăng cường các hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá; Chỉ thị số 05/2008/CT-TTg ngày 31/01/2008 về nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 về tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 19/3/2014 về việc đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực trong công tác quản lý công chức, viên chức và thi đua, khen thưởng... Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính các cấp, trong đó yêu cầu các bộ, ngành địa phương rà soát, hoàn chỉnh nội quy, quy chế, quy trình làm việc của cơ quan, đơn vị; quán triệt, triển khai đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, văn hóa công sở và sử dụng có hiệu quả thời giờ làm việc. Đặc biệt, Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 đã đưa ra những chuẩn mực rõ ràng và đầy đủ hơn về ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức và đề ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, làm rõ để hoàn thiện. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 14/6/2019 về kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở” giai đoạn 2019 - 2025, nhằm nâng cao đạo đức công vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực công tác của cán bộ, công chức, viên chức để phục vụ nhân dân tốt hơn.

(5) Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Luật Cán bộ, công chức quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tổ chức, đơn vị của Nhà nước,… Luật Tổ chức Chính phủ quy định vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Luật Cán bộ, công chức quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tổ chức, đơn vị của Nhà nước,…

(6) Ví dụ: Quy định về trang phục ngành công an, quân đội, thanh tra...; quy định về ngôn ngữ của giáo viên không nói lắp, nói ngọng... 

(7) Quyết định số 1253/2008/QĐ-TANDTC ngày 18/9/2008 của Toà án nhân dân tối cao về Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân; Quyết định số 2534/QĐ-BGTVT ngày 18/8/2008 của Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong ngành giao thông vận tải; Quyết định số 29/2008/QĐ-BYT ngày 18/8/2008 của Bộ Y tế về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp y tế; Quyết định số 61/2008/QĐ-BVHTTDL ngày 31/7/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức ngành văn hóa, thể thao và du lịch; Quyết định số 07/2008/QĐ-KTNN ngày 16/5/2008 của Kiểm toán Nhà nước ban hành Quy tắc ứng xử của kiểm toán viên nhà nước; Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV ngày 16/5/2007 của Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương; Quyết định số 86/QĐ-BTP ngày 18/01/2008 của Bộ Tư pháp ban hành Quy chế văn hóa công sở cơ quan Bộ Tư pháp,…

(8) Pháp luật của nhiều quốc gia quy định các quy tắc ứng xử của các nhóm công chức trong một số văn bản riêng. Ví dụ, Ru-ma-ni có 2 luật chuyên biệt quy định về quy tắc ứng xử (năm 2004), đó là "Luật về quy tắc ứng xử dành cho công chức" và "Luật về quy tắc ứng xử dành cho cán bộ hợp đồng"; trong một số ngành, lĩnh vực cũng có các bộ quy tắc ứng xử riêng cho ngành, lĩnh vực đó. Cộng hòa Áo có bộ “Quy tắc ứng xử phòng ngừa tham nhũng trong khu vực công” năm 2008,...

Xem thêm: Chương trình bồi dưỡng ngắn hạn của Học viện quốc gia về Chính sách công Nhật Bản (GRIPS), năm 2015, do Giáo sư Masahiro Horrie chủ biên, dành cho đoàn cán bộ cấp thứ trưởng và quy hoạch thứ trưởng của Việt Nam theo Đề án 165; Vũ Thanh Sơn, Cạnh tranh trong tuyển chọn nhân lực, Nxb Thông tin và Truyền thông, H.2011.

(9) Về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm về văn hóa công vụ, bảo đảm sự công bằng đối với mọi công chức trong nền công vụ. Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức hiện chỉ quy định chung các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức mà chưa có những quy định định khung cho từng cấp độ, do đó thiếu sự thống nhất trong quá trình xử lý hành vi vi phạm, đồng thời chưa tạo được tính nghiêm minh. 

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật Hành chính, Nxb CTQG-ST, H.2016.

2. Thanh tra Chính phủ (2017), Tài liệu lưu hành nội bộ: “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới”. 

3. Phạm Hồng Thái, Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ, Sách tham khảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2015.

4. Huỳnh Văn Thới, Văn hóa công vụ ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận Chính trị, H.2016.

5. Tạ Đình Tuyên, Xây dựng quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức để phòng ngừa tham nhũng: Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, tại https:// tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat-the-gioi/xay-dung-quy-tac-ung-xu-cua-can-bo-cong-chuc-de-phong-ngua-tham-nhung-kinh-nghiem-cua-nhieu-quoc-gia-tren-the-gioi, xem ngày 08/4/2020.

 

TS Nguyễn Thị Vân Hà - Phó Trưởng khoa, Khoa Nhà nước - pháp luật và Lý luận cơ sở, Học viện Hành chính Quốc gia

tcnn.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.