Hà Nội, Ngày 25/04/2024

Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động

Ngày đăng: 11/08/2020   14:54
Mặc định Cỡ chữ
Người lao động được xem là đối tượng cần có chính sách quan tâm đầy đủ hơn trong xã hội, đặc biệt là chính sách về khuyến khích, lôi cuốn, động viên, khen thưởng cho những cống hiến của họ đối với cộng đồng. Bài viết chú trọng tìm hiểu về chính sách cho người lao động, thực trạng công tác khen thưởng cho đối tượng này và đề xuất những giải pháp đối với công tác khen thưởng cho người lao động hiện nay.

Về chính sách khen thưởng đối với người lao động

Chính sách khen thưởng (CSKT) đối với người lao động (NLĐ) là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước ta quan tâm sâu sắc và trên thực tế, việc thi đua, khen thưởng (TĐKT) cho NLĐ đã góp phần “tạo động lực lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước,… hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao” quy định tại Điều 1 Luật TĐKT năm 2013 (sửa đổi, bổ sung). Trên cơ sở đó, CSKT đối với NLĐ cũng được quy phạm hóa tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TĐKT, trong đó về nguyên tắc khen: “Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ và cá nhân là người trực tiếp lao động, sản xuất, học tập, công tác hoặc chiến đấu, phục vụ chiến đấu”.

Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng” và triển khai nhiệm vụ thi đua, khen thưởng năm 2020. Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh- Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương phát biểu chỉ đạo Hội nghị.

Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu cho thấy, cách hiểu và khái niệm về đối tượng NLĐ vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa có định nghĩa chính thống.

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, NLĐ là: “người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động” (khoản 1 Điều 3). NLĐ ở vị trí và cách nhìn nhận này là người thợ, người làm công ăn lương, đóng góp lao động, chuyên môn, nỗ lực làm ra sản phẩm, thường thông qua hợp đồng lao động, nhận công theo sản phẩm.

Trong môi trường công vụ, môi trường quản lý của bộ máy nhà nước, NLĐ có thể hiểu là người không giữ chức vụ lãnh đạo, được tuyển dụng làm việc, theo hợp đồng hoặc trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hưởng lương từ đơn vị sự nghiệp và là cá nhân trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Ở môi trường làm việc này, NLĐ tuân thủ theo quy chuẩn của thứ bậc hành chính và chịu sự ràng buộc bởi pháp luật chuyên ngành. Sản phẩm của họ mang tính trí tuệ và “đầu ra” của sản phẩm là các văn bản tham mưu cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý cơ quan nhà nước, các ý tưởng đổi mới trong cải cách, tổ chức bộ máy nhà nước, các công việc mang lại hiệu quả lớn cho xã hội như chăm sóc người bệnh, điều chế thuốc, gìn giữ văn hóa cội nguồn dân tộc. Cách nhìn nhận về NLĐ trong trường hợp này cũng để phân biệt với người giữ “chức vụ lãnh đạo”, là người có chức vụ, được hưởng phụ cấp lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành, phân công công việc, quản lý NLĐ trong cơ quan, đơn vị.

Cũng có thể nhìn nhận ở góc độ khác về khái niệm NLĐ: không chịu sự ràng buộc bởi người chủ sử dụng lao động, không nhận lương từ họ, bởi đây là những đối tượng lao động tự do, những người thuần túy làm nông nghiệp, hoặc những cá nhân lao động mang tính chất tình nguyện, thiện nguyện, không tính đến lợi nhuận hoặc công lương. Sản phẩm làm ra của đối tượng này là sản vật, nông sản phục vụ trực tiếp cho đời sống của họ, thời giờ làm việc không phụ thuộc vào khuôn phép, ràng buộc của hợp đồng hoặc các quy ước lao động.

Với nhiều góc độ tiếp cận cho thấy, có sự khác nhau giữa Bộ luật Lao động về khái niệm NLĐ và các nghiên cứu khác. Do đó, khi thực hiện CSKT đối với đối tượng này cũng cần có sự thống nhất để khen thưởng “đúng người, đúng việc, đúng chủ trương, chính sách” về NLĐ. Dựa vào tính chất công việc, môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ, sự ràng buộc bởi các quy định pháp luật, có thể đưa ra khái niệm: “Người lao động là các cá nhân trong độ tuổi lao động, làm việc trực tiếp trong các môi trường khác nhau, được hưởng lương, thù lao xứng đáng từ người quản lý lao động, từ công sức lao động của bản thân”.

Như vậy, NLĐ có đặc điểm đặc thù: (1) Là những người trực tiếp làm ra của cải, sản phẩm vật chất, tạo ra những giá trị tốt đẹp cho đời sống con người. (2) Được nhận thù lao, tiền công, hoa lợi từ công sức lao động của cá nhân. (3) Chịu sự ràng buộc trong lao động bởi các quy tắc, quy phạm pháp luật; đồng thời chịu sự quản lý, giám sát, kiểm soát, đánh giá bởi người sử dụng lao động, người quản lý cấp trên. (4) Không phân biệt giới tính, dân tộc và đang trong độ tuổi lao động.

Để thực hiện việc chú trọng khen thưởng cho NLĐ trên thực tế, cần thiết làm rõ khái niệm này tại Luật TĐKT. Đây cũng là căn cứ pháp lý vững chắc để khen đúng người, đúng việc, đúng thành tích. Đối tượng NLĐ được xem là đối tượng yếu thế trong xã hội, cần được quan tâm, động viên, khích lệ bằng nhiều hình thức khác nhau. Do đó, khái niệm để xác định đối tượng khen là NLĐ cần được làm rõ để kịp thời thời tôn vinh giá trị cống hiến của đối tượng đang chiếm số đông trong xã hội hiện nay.

Thực trạng chính sách khen thưởng cho người lao động hiện nay

Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TĐKT, hướng dẫn về nguyên tắc khen thưởng dành cho đối tượng người trực tiếp lao động, sản xuất, học tập công tác hoặc chiến đấu, phục vụ chiến đấu một bước tiến lớn, thể hiện sự công bằng trong việc xem xét các đối tượng khen thưởng. Nguyên tắc này thể hiện sự ưu tiên, ưu ái trong khen thưởng, tôn vinh đối với NLĐ. Tuy nhiên, chính sách được quy phạm hóa này đang tồn tại các bất cập chưa đáp ứng được trên thực tế. Dưới góc độ quản lý nhà nước, CSKT cho NLĐ đang đặt ra những vấn đề về xác định đối tượng, hồ sơ, thủ tục, điều kiện xét khen, cụ thể như sau:

Một là, chưa cụ thể hóa các quy định về đối tượng khen thưởng là NLĐ để thực hiện khen trên thực tế.

Hiện nay, Luật TĐKT năm 2013 chưa đề cập đến nguyên tắc về chú trọng xét khen đối với NLĐ, mới chỉ đề cập trách nhiệm của người đứng đầu trong việc: “phát hiện, xây dựng điển hình tiên tiến là công nhân, nông dân, người lao động ở các thành phần kinh tế để khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng” (khoản 4 Điều 83). Do chưa cụ thể hóa đối tượng khen và nghiên cứu cụ thể về đặc thù của đối tượng này, dẫn đến các bộ, ban, ngành và địa phương có cách thức tiến hành, thực hiện khen cho đối tượng là NLĐ một cách khác nhau, không theo một quy chuẩn cụ thể.

Hai là, vướng mắc chưa được giải quyết trong quá trình xét khen thưởng cho NLĐ về hồ sơ, trình tự, thủ tục và các điều kiện để xét khen thưởng.

Việc tiến hành khen thưởng cho NLĐ dành cho cá nhân cụ thể, hoạt động trong nhiều lĩnh vực liên quan đến đời sống xã hội. Khác với các hình thức khen thưởng khác, đây là những hoạt động mang tính đặc thù, đặc biệt, áp dụng cho đối tượng là NLĐ, là những người trực tiếp tạo ra của cải, vật chất cho xã hội, tạo ra sản phẩm bằng bàn tay, khối óc, tư duy của mình. Từ đó, hình thức vinh danh đối với đối tượng này cũng có sự khác biệt với các đối tượng khác. Chỉ các hình thức khen cá nhân mới được áp dụng cho trường hợp khen NLĐ, còn các hình thức khen, vinh danh dành cho tập thể không thuộc đối tượng khen này.

Do đặc thù công việc, nhiều trường hợp, NLĐ không trực tiếp làm trong môi trường của một cơ quan, tổ chức hoặc không biết đến các hình thức thi đua, các đợt phát động thi đua để thực hiện nhiệm vụ thi đua và đăng ký tham gia thi đua. Vì vậy, khi xét hồ sơ khen thưởng đối với các đối tượng này, có thể không đầy đủ về hồ sơ theo quy định như: bản đăng ký tham gia thi đua, các xác nhận Hội đồng xét khen thưởng các cấp đối với thành tích mà họ đạt được. Thành tích được khen của NLĐ nhiều trường hợp là những giá trị về tinh thần, cống hiến cho xã hội do cộng đồng dân cư, do người dân trực tiếp tôn vinh. Do đó, đã có những hạn chế, vướng mắc của cơ quan nhà nước khi thực hiện trao tặng các danh hiệu TĐKT đối với các trường hợp nêu trên trong quá trình xem xét hồ sơ để đề nghị khen thưởng.

Ba là, sự công bằng trong xem xét, khen thưởng đối với NLĐ, tạo nên giá trị lan tỏa cộng đồng.

NLĐ vẫn thực sự là đối tượng thuộc yếu thế trong xã hội, họ cần được tôn vinh những giá trị, vai trò trong cống hiến cho cộng đồng, góp phần bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế và vai trò lớn trong việc làm ra của cải vật chất cho đơn vị, của đất nước, quốc gia.

NLĐ là đối tượng có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực lao động khác nhau, có cả khu vực công và tư, do đó, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt để áp dụng khen thưởng, bảo đảm công khai về thông tin, công bằng trong xét khen thưởng, góp phần tạo niềm tin cho mỗi cá nhân, từ đó tiếp tục động viên, khuyến khích sự phấn khởi, hăng hái, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ.

Đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả chính sách khen thưởng đối với người lao động

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành, chú trọng thực hiện CSKT cho NLĐ có thành tích xuất sắc.

CSKT, nhất là khen thưởng cho đối tượng yếu thế trong xã hội được Đảng, Nhà nước quan tâm, chỉ đạo xuyên suốt qua nhiều văn kiện, chỉ thị và có tổng kết, đánh giá hiệu quả thực hiện trên thực tế. Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Ban Chấp hành Trung ương về việc “Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác thi đua.

Đi đôi với các phong trào thi đua là công tác khen thưởng kịp thời, đúng người, đúng việc, tạo nên động lực cho cá nhân, tổ chức hăng hái sản xuất, lao động, cống hiến. Tuy nhiên, thực tế hiện nay đang diễn ra tại một số bộ, ngành, địa phương về đối tượng khen là lãnh đạo chiếm phần lớn, thường được “ưu ái” hơn khi tiến hành xét khen, do đó, tiếp tục tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp, chính quyền ở các cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương về khen thưởng cho NLĐ.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về khen thưởng cho NLĐ.

Luật TĐKT sau 13 năm thực hiện, được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, đến nay đang tiến hành dự thảo để tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. Theo đó, các mối quan hệ mới phát sinh trong thực tiễn, những yêu cầu về đổi mới, cải cách, hội nhập cần được nghiên cứu, xem xét để có các quy phạm điều chỉnh phù hợp, trong đó cần chú trọng khen thưởng đến đối tượng yếu thế trong xã hội, nhất là đối với NLĐ.

Đi đôi với việc hoàn thiện các quy định mang tính chất nguyên tắc khung tại Luật, các văn bản dưới Luật cần hướng dẫn rõ, chi tiết, cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, hồ sơ, thủ tục đối với NLĐ khi xét khen thưởng. Về tiêu chuẩn và hồ sơ, trình tự thực hiện cần đơn giản hóa các bước để tiến hành nhanh gọn, tránh lạm dụng thời gian, quyền lực trong quá trình thực hiện khen thưởng đối với đối tượng là NLĐ. Theo quy định chung, có khá nhiều thành phần trong hồ sơ xét khen cho các danh hiệu thi đua như: văn bản đề nghị khen thưởng, báo cáo thành tích cá nhân, biên bản xét khen thưởng, chứng nhận của cơ quan quản lý có thẩm quyền đối với phát minh, sáng chế, sáng kiến, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hoặc sáng tác, sáng tạo…

Tuy nhiên, đối với đối tượng là NLĐ, sẽ mất nhiều thời gian, công sức và khó khăn khi đáp ứng đầy đủ các thành phần hồ sơ nói trên. Do vậy, cần tính đến tính đặc thù và sự mềm dẻo trong hồ sơ xét khen đối với NLĐ. Ngoài ra, cần rõ ràng, cụ thể khi xác định đối tượng là NLĐ để tiến hành xét khen, bảo đảm thống nhất giữa đối tượng, hình thức khen, kết hợp chặt chẽ động viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật chất, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, không phân biệt NLĐ làm việc trong môi trường công, tư, độ tuổi trong TĐKT.

Thứ ba, phát hiện, nhân rộng điển hình tiên tiến tạo động lực lan tỏa trong khen thưởng đối với NLĐ.

Một trong những trách nhiệm của cơ quan tổ chức, đơn vị thực hiện phong trào thi đua và tổ chức khen thưởng là phát hiện gương điển hình tiên tiến, nhân rộng điển hình tiên tiến, động viên, khích lệ mọi người tích cực lao động, sản xuất, học tập và chiến đấu. Hoạt động này nhằm tạo nên sức lan tỏa rộng lớn trong cộng đồng, nêu gương những cá nhân, nhất là những NLĐ có thành tích tiêu biểu xuất sắc để kịp thời tôn vinh những cống hiến của họ đối với xã hội. Công tác xây dựng điển hình tiên tiến phải được thực hiện từ cơ sở và chỉ đạo thực hiện đồng bộ tốt cả 4 khâu: phát hiện – bồi dưỡng – tổng kết – nhân điển hình tiên tiến.

Để lan tỏa gương người tốt việc tốt, lao động tốt trong xã hội, cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thôn, làng, ấp bản trong việc tổ chức các phong trào thi đua, gắn liền và thiết thực với lao động, sản xuất, đồng thời tổ chức các đợt tổng kết, đánh giá, phát hiện gương điển hình trong lao động, học tập, công tác. Đa dạng hóa các phương tiện tuyên truyền về TĐKT, nhất là chính sách của nhà nước đối với khen thưởng cho NLĐ để các cá nhân, tổ chức được tiếp cận thông tin rộng rãi, chính xác. Bên cạnh đó, cần phối hợp tốt giữa cơ quan quản lý nhà nước về TĐKT từ trung ương đến địa phương với các cơ quan truyền thông, báo chí để kịp thời tuyên truyền về các cá nhân, nhất là NLĐ được khen thưởng, tôn vinh, tạo động lực cho các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội học tập, làm theo, phát huy.

Thứ tư, các cơ quan quản lý nhà nước về công tác TĐKT có trách nhiệm thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá và đổi mới cách làm, cách tổ chức thực hiện phong trào TĐKT.

Sau mỗi đợt phát động phong trào thi đua, cơ quan quản lý nhà nước về TĐKT cần nghiêm túc đánh giá, tổng kết những kết quả đạt được và rút kinh nghiệm để đổi mới cách làm, cách thực hiện nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh đoàn kết, truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân. Nhất là đối với NLĐ ở các thành phần kinh tế, môi trường, đơn vị, cơ quan khác nhau, cần được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về các phong trào thi đua, để khuyến khích họ tham gia tự nguyện nhằm đạt được thành tích xuất sắc, làm căn cứ khen thưởng, tôn vinh. Đối với những người làm công tác TĐKT, cần chủ động nắm bắt thông tin, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và có hướng dẫn cụ thể về thủ tục, hồ sơ đối với NLĐ khi được khen nhằm tạo điều kiện, rút ngắn thời gian tối đa, để kịp thời khen thưởng khi có đề xuất khen.

Thứ năm, đề xuất khuyến khích bằng lợi ích vật chất phù hợp khi thực hiện khen đối với NLĐ.

Song song với việc tôn vinh, biểu dương NLĐ có thành tích được khen là việc khuyến khích lợi ích vật chất tương ứng. Với nguyên tắc khen thưởng phải bảo đảm tính kịp thời, chính xác nhưng cũng cần công bằng và đúng quy định. Do đó, các hình thức khuyến khích về vật chất đối với NLĐ tương ứng danh hiệu được khen cũng cần làm rõ và phù hợp quy định. Khen thưởng là sự tôn vinh tiêu biểu, xuất sắc, không nên tiến hành tràn lan, vô căn cứ mà cần có tiêu chuẩn cụ thể khi xét khen. Cụ thể, đối với các hình thức khen thưởng dành cho cá nhân là NLĐ, cần quy định rõ tại văn bản quy phạm pháp luật về lợi ích vật chất mà họ nhận được đi đôi với mức khen. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để NLĐ nhận thức được những lợi ích đi kèm khi được vinh danh, tạo thêm niềm tin, động lực để các cá nhân phấn đấu, rèn luyện và hăng say lao động, cống hiến cho xã hội.

NLĐ trong xã hội phát triển hiện đại cần được coi trọng và là đối tượng cần có chính sách điều chỉnh phù hợp, trong đó có chính sách về khen thưởng cần ban hành kịp thời, có trọng tâm. Mặc dù trong thời gian qua, chủ trương của Đảng, các văn bản của Nhà nước qua các thời kỳ đều có điều chỉnh về CSKT đối với NLĐ, song chưa đầy đủ và cần cụ thể hóa, quy phạm hóa chi tiết, phù hợp để có căn cứ pháp lý thực hiện trên thực tiễn./.

--------------------------------

Tài liệu tham khảo:

Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013.

Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng.

Báo cáo Tổng kết phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng 5 năm (2011 – 2015), phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 – 2020 của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương. H. 2015.

Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến.

 

ThS. Phạm Thu Thủy, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương

Theo: quanlynhanuoc.vn

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

ĐBQH - PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Lịch sử, địa lý, văn hóa là yếu tố quan trọng trong việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập

Ngày đăng 15/04/2024
Đến năm 2025, cả nước dự kiến có hơn 600 đơn vị hành chính cấp xã mới sau khi sáp nhập và việc đặt tên cho các đơn vị hành chính mới này là vấn đề hiện đang được dư luận rất quan tâm. PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, việc đặt tên cần thể hiện được dấu ấn, truyền thống văn hóa, lịch sử địa lý… của địa phương.

Vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả

Ngày đăng 05/04/2024
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đột phá chiến lược về thể chế. Bài viết tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Công vụ và sự thay đổi hướng tới trả lương theo vị trí việc làm

Ngày đăng 29/03/2024
Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức là kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình công vụ vị trí việc làm và hướng đến trả lương theo vị trí việc làm. Bài viết phân tích, trao đổi về công vụ và các mô hình công vụ cùng với vấn đề vị trí việc làm để hướng tới trả lương theo vị trí việc làm.

Những nội dung cơ bản trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên

Ngày đăng 22/03/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào thanh niên, khẳng định “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”(1). Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, quan điểm về sự nghiệp “trồng người” trở thành tư tưởng xuyên suốt, góp phần chuẩn bị và xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, dẫn dắt thanh niên trở thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính

Ngày đăng 19/03/2024
Văn bản hành chính (VBHC) là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức(1). VBHC là phương tiện không thể thiếu để các cơ quan, tổ chức truyền đạt các thông tin quản lý và ban hành các quyết định quản lý. VBHC cũng là sản phẩm phản ánh kết quả hoạt động của của cơ quan, tổ chức nói chung, của mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức nói riêng.