Hà Nội, Ngày 03/12/2023

Kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay

Ngày đăng: 03/10/2018   14:58
Mặc định Cỡ chữ

Trong thời gian qua, công tác kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương ở nước ta đã được đổi mới và tăng cường, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc về mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương. Thực tiễn đó đặt ra một số vấn đề cần phải giải quyết nhằm làm cho việc kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương có hiệu lực, hiệu quả hơn.

Ảnh minh họa. Nguồn: chinhphu.vn

1. Khái quát về sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương

Cũng như hầu hết các nước có phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc xác lập mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Qua đó, tổ chức hợp lý bộ máy nhà nước cũng như phát triển quốc gia.

Ở nước ta, khái niệm “chính quyền địa phương" đã được sử dụng khá thông dụng trong đời sống pháp lý, trong một số văn bản dưới luật và là tên của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958. Nhưng tại các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, trong chương quy định về chính quyền địa phương không dùng khái niệm “chính quyền địa phương" mà sử dụng tên gọi các cơ quan là “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (hoặc Ủy ban hành chính)”. Lần đầu tiên Chương XIX, Hiến pháp năm 2013 đã chính thức ghi nhận tên gọi “Chính quyền địa phương". Tên chương như vậy không mặc nhiên dẫn đến sự thay đổi cơ bản mô hình chính quyền địa phương có tính truyền thống, nhưng phản ánh sự cần thiết làm mới quan hệ giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương với nhận thức mới về nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với điều kiện có nhiều thay đổi…

Trước hết là xác định chủ thể của mối quan hệ này, chủ thể của mối quan hệ trung ương - địa phương được tiếp cận từ khía cạnh quản lý nhà nước, tức là chỉ các cơ quan có vai trò tổ chức tích cực và thúc đẩy hoạt động, sự phát triển đời sống xã hội, không bao gồm hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp. Theo đó, chính quyền trung ương được nói đến chủ yếu là Quốc hội và Chính phủ. Chính quyền địa phương là cơ quan đại diện được gọi là hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính (Ủy ban nhân dân). Trong thực tế, có quan niệm hiểu rộng chính quyền địa phương gồm tất cả các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương. Nghĩa là, ngoài các cơ quan hội đồng và hành chính còn có các cơ quan toà án, kiểm sát và các cơ quan nhà nước khác thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, cách hiểu này thiếu tính thực tiễn và khó được sử dụng trong bối cảnh dân chủ hoá các cộng đồng lãnh thổ và sự quan tâm được đặt vào vấn đề chính quyền địa phương thực hiện quản lý nhà nước, tổ chức đời sống xã hội, cung ứng dịch vụ công ở địa phương như thế nào.

Trong quan niệm chung và sự ghi nhận về mặt pháp lý ở nước ta, chính quyền địa phương gồm hai loại cơ quan là HĐND và UBND. Chính quyền địa phương được tổ chức ở ba cấp chủ yếu: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Khi tập trung xem xét cơ quan ở địa phương là HĐND, có quan điểm cho rằng quyền lực nhà nước gồm các quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Trong nhà nước đơn nhất và theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất thì ở địa phương chỉ thực thi quyền hành pháp và quyền tư pháp. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nhưng là cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan thực thi quyền hành pháp. Nói cách khác, HĐND thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước(1). Quan niệm HĐND là cơ quan thực thi quyền hành pháp cũng có cơ sở khi xác định quyền lực nhà nước với các bộ phận cấu thành như trên. Tuy nhiên, cần xem xét việc xếp HĐND vào hệ thống cơ quan hành chính, vì HĐND còn có các chức năng khác với cơ quan hành chính: chức năng đại diện nhân dân, chức năng giám sát tựa như Quốc hội. Đây là vấn đề có tính thực tiễn liên quan đến quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Vì theo pháp luật, những vấn đề quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của mỗi hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được xử lý, quyết định bởi cơ quan cấp cao hơn trong từng hệ thống. Trên phương diện khác, có thể xem xét vị trí, vai trò của chính quyền địa phương trong quan hệ với chính quyền trung ương và cộng đồng địa phương. Theo đó, chính quyền địa phương không chỉ là các cơ quan thực thi luật và trên thực tế còn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác: đại diện cho chính quyền trung ương tại địa phương, đại diện và thể hiện ý chí của nhân dân địa phương, giám sát, bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước và thi hành pháp luật, pháp chế thống nhất. Vị trí, vai trò của chính quyền địa phương thể hiện trên hai mặt hoạt động quan trọng là quản lý nhà nước và bảo đảm cung ứng dịch vụ công ở địa phương.

Trong bất cứ nhà nước nào, chính quyền trung ương và chính quyền địa phương phải là một thể thống nhất. Một nhà nước chỉ mạnh, quản lý và phục vụ phát triển xã hội tốt khi chính quyền trung ương và chính quyền địa phương đều mạnh, hoạt động thống nhất, thông suốt và hiệu quả. Một trong những yếu tố tạo nên sự thống nhất và sức mạnh đó của nhà nước là tạo lập mối quan hệ hợp lý, hài hoà giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Trong nhà nước hiện đại, quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương được xác lập xuất phát từ những yêu cầu về phát huy dân chủ, tính tự chủ, tự quản của địa phương; phân công lao động hợp lý cũng như bảo đảm hiệu quả quản lý và cung ứng dịch vụ công; phát triển địa phương với các đặc điểm, đặc thù nhất định trong tương quan với phát triển chung của cả nước… Khi xử lý các yêu cầu này, phải tính đến tính thống nhất quốc gia, mục tiêu phát triển chung, bảo đảm sự thống nhất giữa các địa phương trong đa dạng, sự công bằng, bình đẳng nhất định giữa các địa phương, bảo đảm tương quan hợp lý giữa lợi ích của địa phương và lợi ích chung của quốc gia. Đồng thời, phải ngăn ngừa, xử lý tình trạng cục bộ địa phương, vi phạm dân chủ, lợi ích của nhân dân, vi phạm pháp luật từ phía chính quyền địa phương… Để bảo đảm cho mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương, chính quyền trung ương với tư cách đại diện cho nhân dân cả nước, lợi ích chung của quốc gia phải đóng vai trò quyết định, thể hiện qua việc kiểm soát đối với chính quyền địa phương. Ở đây, kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương không chỉ là theo dõi, xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định mà rộng hơn, là việc chính quyền trung ương ở giới hạn, mức độ nhất định làm chủ được tình hình, đặt chính quyền địa phương trong tầm ảnh hưởng, chi phối và có năng lực bảo đảm để chính quyền địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.

Đối tượng kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương được thể hiện trên nhiều mặt: quản lý kinh tế, xã hội, văn hóa..., bảo đảm cung ứng dịch vụ công; tổ chức và nhân sự, tài chính - ngân sách và các mặt khác. Phạm vi và mức độ kiểm soát chính quyền địa phương ở mỗi nước phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của nền chính trị, truyền thống cũng như nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.

Ở nước ta, kiểm soát đối với chính quyền địa phương được thực hiện với vai trò chủ đạo, quyết định của chính quyền trung ương. Để thực hiện chức năng kiểm soát chính quyền địa phương, chính quyền trung ương đã sử dụng nhiều phương tiện, biện pháp khác nhau. Có thể phân thành các nhóm cơ bản sau đây:

- Nhóm có tính tổ chức liên quan đến tổ chức bộ máy, nhân sự với nhiều hình thức đa dạng: phê chuẩn kết quả bầu cử, bãi miễn…; luân chuyển cán bộ; giải tán HĐND…;

- Nhóm có tính chất tài chính - ngân sách;

- Nhóm gắn với vận hành của chính quyền địa phương: chỉ đạo, định hướng, hướng dẫn, giải thích, xác định các tiêu chuẩn, yêu cầu hoạt động…;

- Nhóm bảo đảm, bảo vệ pháp luật của chính quyền trung ương: kiểm tra, thanh tra, giám sát;

- Nhóm biện pháp khuyến khích hành vi tích cực và xử lý hành vi tiêu cực: thi đua, khen thưởng và kỷ luật…

2. Thực trạng vấn đề kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay

Kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương ở Việt Nam là có tính phổ quát, nhưng cũng có tính đặc thù. Đó là:

Thứ nhất, kiểm soát chính quyền địa phương được thực hiện theo nguyên tắc đặc thù có tính chất quyết định, đó là: tập trung dân chủ. Trong đó, chính quyền trung ương giữ vai trò quyết định về mọi mặt thể chế pháp lý và việc tổ chức thực hiện. Do đó, trong thực tế, tính tập trung thống nhất trong kiểm soát được thực hiện nhất quán trong toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật về chính quyền địa phương từ năm 1945 đến nay.

Thứ hai, trong nền chính trị, việc kiểm soát chính quyền địa phương ngoài sự kiểm soát của nhà nước còn có sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự kiểm soát có hiệu lực cao với tư cách Đảng là chủ thể nắm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị.

Thứ ba, kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương ở Việt Nam được thực hiện với chính quyền địa phương nhiều cấp. Hiện nay, chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức ở ba cấp: tỉnh, huyện, xã. Sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương được thực hiện chủ yếu qua chính quyền cấp tỉnh. Nhưng, Trung ương vẫn “quan sát” và chú ý xem xét với các cấp chính quyền huyện, xã. Điều đó thể hiện trong rất nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013, như: giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của Nhà nước, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến chính quyền địa phương(2)...  

Thứ tư, kiểm soát đối với chính quyền địa phương được thực hiện trên cả phương diện hợp pháp và hợp lý. Đối với chính quyền địa phương các nước tổ chức theo mô hình tự quản, chính quyền trung ương, cấp cao hơn chỉ kiểm soát về tính hợp pháp. Trong khi ở nước ta, mặc dù Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã xác định chính quyền địa phương có các nhiệm vụ, quyền hạn do phân quyền, nhưng với nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc biệt là các quy định về lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, tác động đến tổ chức và nhân sự của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với chính quyền địa phương thì phân quyền cho địa phương đã có nét đặc thù riêng.     

Thứ năm, kiểm soát chính quyền địa phương hiện nay được thực hiện trong điều kiện đẩy mạnh phân quyền, phân cấp quản lý. Nhờ đó, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, chính quyền trung ương giảm hoặc không trực tiếp can thiệp sâu vào các vấn đề của địa phương mà tập trung vào các vấn đề có tính vĩ mô. Từ đó, kiểm soát của chính quyền trung ương, của chính quyền cấp trên đối với chính quyền cấp dưới có đối tượng rõ ràng và khách quan hơn…   

Ở nước ta, sau hơn 30 năm đổi mới, công tác kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương đã được đổi mới và tăng cường. Theo đó, các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương đã được phân định theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Hoạt động quản lý và bảo đảm cung ứng dịch vụ công của chính quyền địa phương tuy có những điểm bất cập, có những vấn đề “nóng”, nhưng về cơ bản đáp ứng yêu cầu của cộng đồng địa phương và yêu cầu chung, không gây mất ổn định hay rối loạn. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.

Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã nêu ra các hạn chế, vướng mắc về mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương. Những hạn chế, vướng mắc này phần nào được khắc phục khi Quốc hội thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, nhưng một đạo luật (và cả các luật liên quan khác) cũng chưa thể giải quyết được tất cả các hạn chế đó. Báo cáo nêu rõ: 

“- Quan hệ giữa Trung ương và địa phương chưa thực sự rõ ràng, minh bạch, chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn và những nguyên tắc tổ chức nền hành chính. Điều này dễ dẫn đến việc khó điều hòa lợi ích khách quan giữa Trung ương và địa phương, tạo cơ sở nảy sinh các biểu hiện “quyền lực ngành” với “cơ chế xin - cho”, hoặc ngược lại là tính cục bộ địa phương. Trong phân cấp quản lý, các bộ, ngành Trung ương còn nắm quá nhiều quyền cụ thể, phong cách quản lý vẫn nặng dấu ấn cơ chế tập trung; trách nhiệm quản lý ngành trên địa bàn thiếu rõ ràng, minh bạch.

- Mối quan hệ quản lý ngành và quản lý địa bàn lãnh thổ giữa bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương còn chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm. Thẩm quyền của chính quyền địa phương vừa hạn chế, vừa thiếu cụ thể làm giảm quyền chủ động sáng tạo của địa phương, không đáp ứng kịp thời quyền lợi của người dân, hạn chế khả năng tự quản, tự chịu trách nhiệm dẫn đến hạn chế hiệu quả quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn”(3).

Từ góc độ kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương, các hạn chế nêu trên đã đụng chạm tới vấn đề cơ bản của kiểm soát giữa Trung ương - địa phương hiện nay, đó là: một số chính quyền địa phương bị kiểm soát chặt chẽ qua cơ chế “xin - cho”; các bộ, ngành Trung ương còn nắm quá nhiều quyền, qua đó hạn chế quyền chủ động của chính quyền địa phương; sự kiểm soát không loại trừ được tình trạng cục bộ địa phương; quan hệ quản lý ngành và quản lý địa bàn lãnh thổ giữa bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương còn chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm đồng nghĩa với sự kiểm soát không rõ ràng, mạch lạc... Nhìn tổng quát, sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương có nhiều hạn chế, mang nặng dấu ấn của cơ chế tập trung, làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo cũng như hiệu quả chung của bộ máy nhà nước, không phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội.

Bên cạnh đó, việc chủ thể kiểm soát, chủ thể bị kiểm soát cũng như đối tượng kiểm soát được xác lập không hợp lý, không phù hợp với xu hướng cải cách do chưa phân cấp cho địa phương một số lĩnh vực mà khả năng địa phương có thể thực hiện được(4); kiểm soát về nhân sự không được rõ ràng do chế độ trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể không được phân định rạch ròi(5)…

Trong thực tế, việc kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương hầu như tập trung vào UBND cấp tỉnh, trong khi HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nhưng lại ít bị xem xét hoặc xem xét chung chung; chồng lấn về kiểm soát địa phương giữa các bộ ở Trung ương; việc xử lý kỷ luật đối với một số lãnh đạo chính quyền địa phương cấp tỉnh cho thấy kiểm soát của chính quyền trung ương còn lỏng lẻo cũng như sự kết hợp kiểm soát của các cơ quan trung ương còn bất cập,v.v.

3. Tăng cường kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương ở nước ta

Từ thực tiễn kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương hiện nay, bước đầu đặt ra một số vấn đề sau đây:

Một là, đẩy mạnh phân quyền cho địa phương.

Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 xác định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trên cơ sở phân quyền và phân cấp. Với phân quyền, chính quyền trung ương chỉ kiểm soát chính quyền địa phương về phương diện hợp pháp(6). Đối với phân cấp quản lý, chính quyền trung ương thực hiện việc phân cấp phải bảo đảm các nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp(7). Đẩy mạnh phân quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương là phù hợp với xu hướng tăng quyền tự quản, tự chủ địa phương; Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Đồng thời, còn có ý nghĩa trong việc thay đổi tính chất và thu hẹp mức độ kiểm soát của chính quyền trung ương, nhờ đó sự kiểm soát chính quyền địa phương trở nên rõ ràng, giảm đáng kể độ phức tạp và hoạt động hiệu quả.

Hai là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương.

Kiểm soát của chính quyền trung ương chủ yếu thông qua Quốc hội và Chính phủ, nhưng Chính phủ là cơ quan kiểm soát có tính chất trực tiếp và thường xuyên nhất. Vì vậy, cần tăng cường kiểm soát của Chính phủ đối với chính quyền địa phương.

Theo pháp luật Việt Nam, Chính phủ là cơ quan có tầm quan trọng đặc biệt trong việc kiểm soát hoạt động của chính quyền địa phương bao gồm cả HĐND và UBND; các bộ, cơ quan ngang bộ cũng có thẩm quyền và trách nhiệm theo dõi việc thi hành pháp luật ở địa phương(8). Trên thực tế, với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và rất nhiều hoạt động khác nhau ở địa phương, kiểm soát của chính quyền trung ương tỏ ra chưa hiệu quả. Có những sự việc, ví dụ việc mua bán tài sản công, sử dụng đất đai, việc bổ nhiệm sai cán bộ, công chức lãnh đạo ở nhiều địa phương… xảy ra đã lâu nhưng Trung ương chưa kiểm soát nổi. Trong khi đó, sự phối hợp kiểm soát và xử lý các sai phạm ở địa phương giữa các bộ, ngành chưa hiệu quả. Do đó, ngoài việc tăng cường năng lực kiểm soát của Chính phủ, từng bộ, ngành cần tính đến khả năng thành lập cơ quan đại diện của Chính phủ tại địa phương. Hoặc có quy chế phối hợp công tác giữa các bộ, ngành trong kiểm soát chính quyền địa phương…

Ba là, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo của chính quyền địa phương.

Có nhiều kênh để chính quyền trung ương theo dõi, nắm bắt thông tin về chính quyền địa phương, nhưng các báo cáo từ đầu mối chính quyền cấp tỉnh là đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy không ít sự kiện quan trọng xảy ra ở địa phương, Trung ương không hoặc chậm biết là do các báo cáo của địa phương không có hoặc có không đầy đủ các tin tức đó. Đây là một trong những điểm yếu trong chế độ báo cáo của địa phương đối với Trung ương cần phải được cải thiện.

Yêu cầu đối với các bản báo cáo là phải phản ánh được trung thực, toàn diện, đầy đủ, chính xác và kịp thời các vấn đề mà Trung ương cần và phải được biết. Các báo cáo cung cấp thông tin có vai trò đặc biệt trong quản lý, điều hành của Chính phủ bên cạnh nhiều kênh thông tin khác. Vì vậy, cần gắn nội dung thông tin và các yêu cầu khác của báo cáo với trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền cấp tỉnh, có chế độ bảo đảm tính chuyên nghiệp của các báo cáo.

Bốn là, tăng cường vai trò của cá nhân người đứng đầu trong bộ máy hành chính địa phương.

Tổ chức bộ máy UBND các cấp theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 được hình thành từ chế độ bầu cử. Cơ chế này đảm bảo được tính tập trung, tập thể (về mặt hình thức) của cơ quan đại diện nhân dân trong việc bầu ra cơ quan chấp hành (UBND). Tuy nhiên, mô hình này lại hạn chế vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương mỗi cấp trong việc tổ chức bộ máy giúp việc, phục vụ cho công tác điều hành của người đứng đầu. Vì vậy, việc nghiên cứu cách thức thiết lập bộ máy hành chính địa phương từ bầu cử sang thực hiện cơ chế bổ nhiệm cần được tiếp tục nghiên cứu(9). Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 vẫn giữ mô hình như vậy.

Quan điểm trên đây rất cần được chú ý về tính thực tiễn không chỉ với quản lý, điều hành ở địa phương mà còn trong kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương. Tổ chức UBND theo chế độ bầu cử làm cho việc kiểm soát đối với UBND trở nên không rõ ràng khi vừa xác định cơ quan này làm việc theo chế độ tập thể, lại đề cao trách nhiệm người đứng đầu của Chủ tịch UBND. Đối tượng kiểm soát thiếu tính cụ thể và tập trung, sẽ xác định trách nhiệm công vụ, trách nhiệm kỷ luật như thế nào khi giữa Chủ tịch UBND và tập thể UBND không có sự nhất trí về vấn đề nào đó trong quản lý, điều hành, bảo đảm cung ứng dịch vụ công?

Năm là, luật hoá quan hệ kiểm soát giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.

Các quy định về kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương hiện nay tản mạn trong các văn bản luật và dưới luật. Để quan hệ này có tầm xứng đáng và thực hiện có trật tự, nghiêm chỉnh, cần điều chỉnh pháp luật để tạo lập cơ chế hữu hiệu về phát triển chung quốc gia và phát triển địa phương trong tính đặc thù của Nhà nước đơn nhất tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ và dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó sẽ là văn bản luật điều chỉnh những vấn đề cơ bản về mối quan hệ kiểm soát của Trung ương đối với địa phương. Có thể rút kinh nghiệm từ thực tiễn kiểm soát địa phương ở nước ta và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác về vấn đề quy định việc xử lý có tính cách chế tài đối với địa phương liên quan đến ngân sách - tài chính, thậm chí cả những vấn đề như phạt tiền, chuyển giao một số thẩm quyền của cơ quan địa phương cho đại diện cơ quan chính phủ tại địa phương…(10) bên cạnh các chế tài đã có như giải tán HĐND, bãi miễn đại biểu HĐND, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND…    

Sáu là, tăng cường các cơ chế kiểm soát chính quyền địa phương khác.

Kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương chỉ là một trong những cơ chế kiểm soát nhà nước bên cạnh các cơ chế kiểm soát khác. Trong nền chính trị Việt Nam còn có các cơ chế kiểm soát quan trọng khác như: kiểm tra của Toà án đối với các quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội và công dân, đặc biệt là kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng đối với chính quyền địa phương. Về nguyên tắc, không có mâu thuẫn giữa tất cả các cơ chế kiểm soát và giữa các cơ chế dù chưa hoàn hảo, nhưng có những mối quan hệ phối hợp chính thức và không chính thức trong kiểm soát chính quyền địa phương. 

Trong các cơ chế kiểm soát trên, các cơ chế có tính chất chính trị - pháp lý của chính quyền trung ương, của toà án, của tổ chức đảng đều có hiệu lực thực tế, đưa lại các hậu quả pháp lý - chính trị nhất định. Do đó, các cơ chế này cần phải được hoàn thiện để thực hiện việc kiểm soát có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, của chính quyền nên phải tăng cường kiểm soát xã hội. Kiểm soát xã hội là hết sức quan trọng nếu được sử dụng hợp lý, có cơ chế pháp lý - chính trị tốt và bảo đảm thực thi sẽ là nguồn quan trọng để phát hiện, làm rõ, tạo cơ sở và áp lực cần thiết giải quyết vấn đề, qua đó làm cho kiểm soát của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương có hiệu lực và hiệu quả hơn. Không thể kiểm soát tốt chính quyền địa phương nếu người dân không tham gia hiệu quả vào quá trình đó.

PGS.TS. Vũ Thư - Viện Nhà nước và Pháp luật,  Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

------------------------------

Ghi chú:

(1) Văn Tất Thu, Vị trí, vai trò của chính quyền địa phương trong hệ thống các cơ quan nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2009, tr.4.

(2) Xem: Điều  96, 98 Hiến pháp năm 2013.

(3),(4),(5),(9) Bộ Nội vụ, Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, ngày 03/10/2014, tr.29-30, tr.25, tr.26, tr. 29.

(6) Khoản 3, Điều 12, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

(7) Khoản 3, Điều 13, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

(8) Xem: khoản 5 Điều 96 và khoản 1 Điều 99 Hiến pháp năm 2013.

(10) Nguyễn Thị Thu Vân, Kiểm soát của Trung ương đối với chính quyền địa phương ở một số nước trên thế giới, https://caicachhanhchinh.gov.vn/uploads/News/2474/attachs/vi.bai%2017.doc.

tcnn.vn

Bình luận

Trong thời gian qua, công tác kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương ở nước ta đã được đổi mới và tăng cường, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc về mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương. Thực tiễn đó đặt ra một số vấn đề cần phải giải quyết nhằm làm cho việc kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương có hiệu lực, hiệu quả hơn.

" />

Tin tức cùng chuyên mục

Phát huy vai trò, thế mạnh của internet và dư luận xã hội trực tuyến đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Ngày đăng 09/11/2023
Internet đã làm thay đổi cách sống của con người và tác động sâu sắc đến đời sống chính trị, xã hội. Người dân sử dụng internet để tìm hiểu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và bày tỏ ý kiến, đưa ra đề xuất và thực hiện quyền giám sát được quy định trong Hiến pháp. Để phát huy hiệu quả vai trò của internet và dư luận xã hội trực tuyến đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cần phát huy ưu điểm, sử dụng hợp lý vai trò giám sát của dư luận trên mạng internet trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Hoàn thiện pháp luật về phát triển nguồn nhân lực và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong khu vực công ở Việt Nam hiện nay

Ngày đăng 09/11/2023
Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách trong thu hút, trọng dụng nhân tài vào làm việc ở khu vực công luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, để công tác này thực sự có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong khu vực công, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật và có những cơ chế, chính sách phù hợp trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.

"Bệnh sợ trách nhiệm" - 50 năm trước và hiện nay

Ngày đăng 06/11/2023
Tháng 11/1973, trên chuyên mục "Sinh hoạt tư tưởng" của Tạp chí Cộng sản có đăng bài viết "Bệnh sợ trách nhiệm" của đồng chí Nguyễn Phú Trọng với bút danh "Người xây dựng". Khi đó, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là biên tập viên của Tạp chí Cộng sản. Nửa thế kỷ đã đi qua, đọc lại bài viết này và liên hệ với tình hình hiện nay, chúng ta có rất nhiều điều suy ngẫm.  

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Nguồn lực nội sinh cho đại đoàn kết dân tộc

Ngày đăng 27/10/2023
Đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, tôn giáo là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa rất quan trọng để tìm “mẫu số chung” của khối đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong thời kỳ hội nhập toàn diện với khu vực và cộng đồng quốc tế.

Vai trò của Hội đồng quân nhân trong thực hiện dân chủ trực tiếp ở nhà trường quân đội hiện nay

Ngày đăng 19/10/2023
Vai trò của Hội đồng quân nhân trong thực hiện dân chủ trực tiếp ở nhà trường quân đội được thể hiện qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục quân nhân; tham mưu các kế hoạch, phương án thực hiện dân chủ; phối hợp với các tổ chức, lực lượng nhằm thực hiện tốt các nội dung và hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.