Hà Nội, Ngày 24/04/2024

Bảo hiến vì quyền con người trong Hiến pháp 2013

Ngày đăng: 24/08/2017   15:08
Mặc định Cỡ chữ

Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng cơ chế bảo hiến là một yêu cầu và là hoạt động có ý nghĩa khi Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ việc thực hiện Hiến pháp 2013 và các quyết định tại Đại hội XII của Đảng.

Ảnh minh họa: internet

1. Mọi quốc gia, dân tộc, xét về bản chất, đều luôn khát khao tìm kiếm một tổ chức, bộ máy nhà nước tốt nhất, nhằm thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước ấy xây dựng một xã hội, mà ở đó mỗi con người được bình đẳng trong mọi quan hệ, được tôn trọng nhân phẩm và được tự do làm điều mình mong muốn... Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước có những điểm tối ưu, cho phép hiện thực hóa mục tiêu cao cả nói trên. Xây dựng nhà nước pháp quyền, do đó, đã và đang là một yêu cầu, đòi hỏi của mọi nhà nước hiện đại.

Nhà nước pháp quyền ở mỗi nước dù được thiết kế khác nhau, song đều theo những nguyên tắc chung về tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành. Nhìn chung, mọi nhà nước pháp quyền đều có các đặc trưng sau:

a/ Nhà nước được xây dựng trên cơ sở ý chí của người dân.

b/ Nhà nước được tổ chức trên cơ sở “trao quyền”, hoặc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực.

c/ Nhà nước được vận hành trên cơ sở pháp luật. Trong đó, hiến pháp là đạo luật tối cao. Theo đó, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải dựa trên cơ sở hiến pháp; các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng luật và mọi chủ thể xã hội - đặc biệt là các tổ chức, cá nhân thuộc nhà nước - đều bị ràng buộc bởi hiến pháp, pháp luật.

d/ Nhà nước ghi nhận về nguyên tắc hoặc có các quy định cụ thể về các quyền con người; trong đó lấy các chuẩn mực nhân quyền quốc tế làm điểm tham chiếu. Cùng với các quyền an ninh cá nhân, quyền “tự chủ”, “tự quyết” của mỗi con người phải được đề cao.

đ/ Hiến pháp, pháp luật có tính cưỡng chế cao đối với bất kỳ chủ thể nào, dù là tổ chức hay cá nhân có cương vị cao nhất trong xã hội.

e/ Cùng với cơ chế tự kiểm soát của Nhà nước (thông qua kiềm chế và cân bằng quyền lực - cơ chế kiểm soát bên trong), cơ chế kiểm soát của xã hội (cơ chế kiểm soát bên ngoài) ngày càng phát triển và phát huy tác dụng. Trong đó vai trò, vị trí và hoạt động của một nền tư pháp độc lập ngày càng được đề cao...

f/ Cùng với các nguyên tắc nói trên, nhiều nước đã và đang tìm kiếm, thiết kế một cơ quan có khả năng tài phán đối với các vi phạm hiến pháp. Đây đang là một xu hướng mớicủa các nhà nước pháp quyền hiện đại...

Về bản chất, hiến pháp ra đời là nhằm bảo vệ quyền con người, thể hiện ở việc ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của công dân, cũng như quy định việc tổ chức bộ máy nhà nước nhằm thực thi quyền lực công trong bảo vệ trật tự xã hội. Nhưng để cho những quy định của hiến pháp được thực hiện đầy đủ, cần phải có những cách thức bảo vệ hiến pháp. Bảo vệ hiến pháp cũng chính là việc bảo vệ quyền con người và ràng buộc trách nhiệm của nhà nước vào những điều hiến pháp quy định.

Bảo vệ hiến pháp (bảo hiến) từng bước được thừa nhận là một nguyên tắc cơ bản của bất kỳ nhà nước pháp quyền nào. Yêu cầu này được đặt ra ngay từ khi con người phát minh ra hiến pháp. Nhưng chỉ từ sau năm 1945, cơ chế bảo hiến mới được tập trung làm rõ về mặt lý luận và thực thi mạnh mẽ ở một số quốc gia, đặc biệt là ở Cộng hòa Liên bang Đức. Mô hình bảo hiến Đức, với những nét đặc sắc của nó, được quan tâm và dần lan rộng ra nhiều nước(1). Ngày nay, mọi nhà nước hiện đại đều nhận thức được đòi hỏi về xây dựng cơ chế bảo hiến và đẩy mạnh việc tìm kiếm mô hình thích hợp với thực tế chính trị mỗi nước.

Cơ chế bảo vệ hiến pháp ở mỗi nước tuy khác nhau(2), song đều có những điểm chung là trao cho một cơ quan có chức năng giải thích hiến pháp, giám sát việc tuân thủ hiến pháp và đưa ra cách thức giải quyết những vi phạm hay những vấn đề tranh chấp liên quan đến hiến pháp...

2. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo đảm quyền con người. Hiến pháp đầu tiên (1946) đã ghi nhận những quyền con người cơ bản. Hiến pháp cũng coi trọng việc thiết kế bộ máy nhà nước theo hướng dân chủ - tức đảm bảo để nhân dân lao động thực sự giữ địa vị làm chủ trên thực tế. Có thể nói, Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam đã tiệm cận những giá trị chung của nhân loại, cả về nội dung quyền con người và cách thức tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài hàng chục năm khiến việc xây dựng nhà nước theo những quy định và mục tiêu được xác lập tại Hiến pháp 1946 không được trọn vẹn.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền được đặt ra ở Việt Nam, từ Đại hội VII (1991) đến nay, những vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền ngày càng được làm rõ hơn và đang được nỗ lực triển khai. Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền được xác định tính chất là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Đối với cơ chế bảo vệ hiến pháp, ngay từ Đại hội lần thứ X đã xác định nhiệm vụ “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền (...) Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người (...) Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp”(3). Các Đại hội XI, XII của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm này. Đại hội XII còn nhấn mạnh: “Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn”(4)...

So sánh với các Nhà nước pháp quyền khác, Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam có những đặc điểm sau:

a/ Nhà nước được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điểm ưu trội của các nhà nước hiện đại.

b/ Nhà nước được xây dựng trên cơ sở học thuyết Mácxít, lấy mục tiêu xã hội chủ nghĩa làm định hướng phát triển.

c/ Nhà nước đó do Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất lãnh đạo.

d/ Nhà nước được tổ chức trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ...

Hiến pháp 2013 khẳng định:“1/ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2/ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3/ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(5).

Nhà nước Việt Nam khẳng định mục tiêu hướng tới cần quán triệt trong mọi hoạt động là: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(6).

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, Nhà nước Việt Nam luôn cam kết tôn trọng Hiến chương Liên Hợp quốc và các điều ước quốc tế đã ký, trong đó có các Công ước về quyền con người. Hiến pháp 2013 ghi nhận nước Việt Nam “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên Hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Điều 12).

Để thực hiện các cam kết nói trên, Nhà nước Việt Nam đã tham khảo, vận dụng các nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng nhà nước.

Để ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể, Hiến pháp quy định mọi chủ thể, kể cả đảng chính trị đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật: “3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4); “1/ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. 2/ Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8); “3/ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 9)...

Việc quy định quyền cũng như hạn chế quyền cũng được khẳng định công khai, minh bạch: “1/ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”; 2/ Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14).

Hiến pháp cũng quy định rõ việc thực hiện quyền với thực hiện nghĩa vụ, không chỉ với tư cách công dân mà cả với tư cách mỗi con người: “1/ Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2/ Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3/ Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. 4/ Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 15).

Tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của nhà nước rất được coi trọng. Chẳng hạn, quyền sở hữu đất đai, một quyền khá nhạy cảm ở Việt Nam, cũng được khẳng định rõ ràng, minh bạch trong Hiến pháp: “1/ Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật. 2/ Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. 3/ Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. 4/ Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai” (Điều 54). Với các quyền sử dụng trên đất nói trên có thể thấy, người dân có đầy đủ các quyền như quyền sở hữu và được pháp luật bảo vệ chặt chẽ.

Cùng với việc xác lập quyền theo hướng không ngừng mở rộng thêm các quyền và nội hàm mỗi quyền, Hiến pháp còn quy trách nhiệm của Nhà nước phải thực hiện các quyền đó. Hiến pháp cũng xác định trách nhiệm cao hơn của những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn xâm phạm quyền con người, quyền công dân:“5. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” (Điều 31).

Trong nhà nước pháp quyền, vai trò của cơ quan tư pháp có vai trò quan trọng trong việc đem lại sự công bằng, trên cơ sở tôn trọng quyền con người. Hiến pháp quy định: “3/ Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 102); “1/ Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2/ Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (Điều 103).

Ở Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân vừa thực hành chức năng công tố, vừa thực hành việc kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó, “3/ Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (Điều 107)...

Bên cạnh những quy định trên, Hiến pháp hiện hành tiếp tục xác lập rõ chức năng, nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp đã được quy định trong Hiến pháp 1992.

Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vì vậy cơ quan này tiếp tục được trao những nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ Hiến pháp: “2/ Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (...); 10/ Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội” (Điều 70).

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, được trao nhiệm vụ, quyền hạn: “2/(...) giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 3/ Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 4/ Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (...) 7/ Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân”(Điều 74).

So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp mới bổ sung thêm chức năng “Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”. Điều này tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý, kể cả bãi nhiệm đối với những quan chức do Quốc hội bầu vi phạm pháp luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ...

Với những quy định nêu trên, nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp bước đầu được hình thành cùng với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục làm sâu sắc hơn về mặt lý luận và hoạt động thực tiễn của Nhà nước Việt Nam.

Điểm mới trong Hiến pháp 2013 liên quan đến bảo vệ Hiến pháp là lần đầu tiên Việt Nam đưa thành nguyên tắc hiến định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Điều 119.2). Thực tế là nghiên cứu cơ chế này còn “chưa đủ chín” để có thể cho ra đời một mô hình bảo hiến cụ thể (mà việc quy định thành lập cơ quan này trong Hiến pháp có giá trị pháp lý cao nhất). Nhưng mặt khác, quy định này lại có giá trị như sự “cài đặt”trong đạo luật cao nhất một nhu cầu/đòi hỏi và cơ sở pháp lý để có thể cho ra đời một mô hình bảo vệ hiến pháp trong tương lai gần, thông qua một đạo luật riêng.

3. Trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, liên quan đến cơ chế bảo hiến, một số vấn đề đang đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn.

a/ Thứ nhất, về vấn đề “kiểm soát”quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Kiểm soát là rất cần, rất đúng, bởi qua đó, các cơ quan quyền lực nhà nước cần thận trọng hơn, tường minh hơn khi thực hiện chứ năng, nhiệm vụ của mình. Nhưng kiểm soát cái gì? kiểm soát như thế nào?ai kiểm soát?... vẫn cần được tiếp tục thảo luận và thử nghiệm trong thực tế.

b/Thứ hai, các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã có những quy định khá đầy đủ về mọi mặt hoạt động, trong đó có lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, khâu tổ chức thực hiện vẫn đang là rào cản lớn nhất hiện nay. Theo đó, việc tổ chức thực hiện triệt để theo các quy định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong việc bảo vệ Hiến pháp cần có cách tiếp cận mới, với những cách làm mới.

c/ Trên cơ sở Hiến pháp, cần đẩy mạnh nghiên cứu, thảo luận nhằm sớm hình thành được một “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp” thông qua một đạo luật riêng (như đã quy định tại Điều 119.2). Thực tiễn thế giới cho thấy, một cơ quan chuyên trách và được trao thẩm quyền thích hợp sẽ bảo vệ tốt hiến pháp và do đó cũng bảo vệ được hiệu quả các quyền con người.

Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng cơ chế bảo hiến là một yêu cầu và là hoạt động có ý nghĩa khi Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ việc thực hiện Hiến pháp 2013 và các quyết định tại Đại hội XII của Đảng.

PGS. TS. Đặng Dũng Chí - Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

----------------------------------

(1) Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức được thành lập năm 1949, trên cơ sở Luật Cơ bản 1949 (tức Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức). Mô hình này được xem là “mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Đức”, được áp dụng ở nhiều nước, trong đó có nhiều nước Trung và Đông Âu (dẫn theo Sự phát triển và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền, của GS, TS Bodo Pieroth thuộc Đại học Munster. Tài liệu tại Hội thảo “Bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền và nền tư pháp độc lập”, lưu tại Viện Nghiên cứu quyền con người.

 (2) Một số nước như Cộng hòa Pháp thành lập Hội đồng Hiến pháp. Cơ quan này không thực hiện chức năng phán xử đối với các vi phạm hiến pháp, mà phải thông qua Quốc hội.

(3)ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.126-127.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.108.

(5), (6)Hiến pháp 2013: Điều 2, Điều 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.

Theo: lyluanchinhtri.vn

Bình luận

Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng cơ chế bảo hiến là một yêu cầu và là hoạt động có ý nghĩa khi Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ việc thực hiện Hiến pháp 2013 và các quyết định tại Đại hội XII của Đảng.

" />

Tin tức cùng chuyên mục

Để Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đi vào cuộc sống và thực hiện có hiệu quả

Ngày đăng 20/04/2024
Với vị trí, vai trò quan trọng của cơ sở, để thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân có hiệu quả, phải thực hiện dân chủ từ cơ sở. Trong những năm qua, dân chủ trực tiếp ở cơ sở được mở rộng, Nhân dân được bàn và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình; quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân được bảo vệ. Việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở... góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát cần phù hợp với đặc điểm và yêu cầu giám sát trong mô hình chính quyền đô thị

Ngày đăng 15/04/2024
Quan tâm đến việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND), đặc biệt là vấn đề giám sát của HĐND trong mô hình chính quyền đô thị, PGS.TS Lê Minh Thông, ĐBQH khóa XIII cho rằng, cần nghiên cứu sửa đổi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND phù hợp với đặc điểm và yêu cầu giám sát trong mô hình chính quyền đô thị, tạo cơ sở pháp lý cụ thể hơn để HĐND làm tốt chức năng giám sát của mình.

Phát huy vai trò của các tôn giáo trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Tây Ninh hiện nay

Ngày đăng 09/04/2024
Bài viết khái quát tình hình, kết quả và những hạn chế trong phát huy vai trò của các tôn giáo tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Tây Ninh. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của các tôn giáo tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Tây Ninh trong thời gian tới.

Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Ngày đăng 01/04/2024
Xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Đặc biệt, những biến động nhanh chóng, phức tạp của thực tiễn đã và đang đặt ra yêu cầu đối với cán bộ phải giỏi về chuyên môn và có tâm thế năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Muốn đạt được điều đó, cần phải có những đánh giá tổng thể về quan điểm, thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm hiện nay; từ đó đề xuất định hướng giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Đặc điểm lứa tuổi và vai trò của Đoàn Thanh niên trong thực hiện chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

Ngày đăng 25/03/2024
Để tiếp tục triển khai thực hiện hiệu lực, hiệu quả những nội dung tại Nghị định số 13/2021/NĐ-CP quy định về đối thoại với thanh niên; cơ chế, chính sách và biện pháp thực hiện chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, cần làm rõ sự tác động của đặc điểm các lứa tuổi và dự báo xu hướng tâm sinh lý, hành vi… để tạo ra các yếu tố ảnh hưởng tích cực tới quá trình thực thi chính sách. Trong đó, vai trò trực tiếp của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp là rất quan trọng, nhằm gia tăng hiệu quả và tác động xã hội theo mục tiêu của Nhà nước đã đề ra đối với thanh niên.